Các phương thức bảo hộ chương trình máy tính
Công nghệ máy tính đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong xã hội hiện đại. Vốn đầu tư để tạo ra chương trình máy tính thường rất cao và việc bảo hộ chương trình máy tính chống lại việc sao chép và sử dụng không được phép là một vấn đề quan trọng. Không có sự bảo hộ như vậy, các nhà sản xuất chương trình máy tính không thể thu hồi lại vốn đầu tư, điều đó làm cho quá trình sáng tạo và phát triển mang tính quyết định này của công nghệ máy tính có thể bị tổn hại. Ở các quốc gia chưa có hệ thống bảo hộ đầy đủ thì chỉ có thể có được chương trình nước ngoài không được thích nghi với các yêu cầu cụ thể của quốc gia đó. Virus máy tính cũng có xu thế lan rộng tại các quốc gia với việc bảo vệ không đầy đủ vì chúng được phát tán qua các phần mềm sao chép lậu không có sự kiểm soát về chất lượng giống như các sản phẩm được cho phép.
Pháp luật quốc gia và quốc tế bảo đảm sự bảo hộ đầy đủ các chương trình máy tính là một vấn đề thiết yếu. Sự bảo hộ như vậy giúp các quốc gia có thể tiếp cận các phần mềm tiên tiến nhất và phù hợp nhất. Cả trong phạm vi quốc gia và quốc tế đều có sự thống nhất và tương đồng về phương thức bảo hộ chương trình máy tính. Theo báo cáo và các khuyến nghị của Ủy ban thứ hai các Chuyên gia Chính phủ về vấn đề bản quyền tác giả phát sinh từ việc sử dụng máy tính để truy cập hoặc sáng tạo tác phẩm do WIPO và UNESCO tại Paris năm 1982, sự tương thích đó được thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, đưa tác phẩm được bảo hộ vào hệ thống chương trình máy tính bao gồm việc tái tạo, nhân bản tác phẩm trên một vật liệu máy có thể đọc được và có thể là sự ghi thu, lưu định tác phẩm trong bộ nhớ của hệ thống máy tính. Việc cung cấp thông tin của một tác phẩm được bảo hộ từ hệ thống máy tính nên được bảo bộ theo luật bản quyền tác giả dù được định hình dưới bất kỳ hình thức nào (bản in, sự ghi thu, lưu định dạng máy có thể đọc được, hình ảnh, âm thanh thể hiện trên màn hình).
Thứ hai, trong việc sửa đổi hoặc thay đổi luật quốc gia tính đến việc sử dụng máy tính của tác phẩm được bảo hộ cần phải quan tâm để bảo đảm rằng quyền nhân thân của tác giả nên được tiếp tục thực thi đối với việc sử dụng máy tính và ngoại lệ cũng như các hạn chế đối với quyền kiểm soát của chủ sở hữu bản quyền tác giả làm công nghệ máy tính có thể đưa ra theo mong muốn, không vượt quá giới hạn trong các ngoại lệ mà công ước cho phép.
Thứ ba, các li-xăng không tự nguyện đối với việc sử dụng máy tính các tác phẩm được bảo hộ chỉ nên được phê chuẩn khi li-xăng tự nguyện không thể áp dụng được. Trong bất kỳ trường hợp nào, nên tuân theo các quy định của công ước. Trường hợp luật pháp quốc gia thông qua li-xăng không tự nguyện, hiệu lực của li-xăng cần phải được hạn chế trong vùng lãnh thổ của quốc gia ban hành luật đó.
Hiện nay, có 2 phương thức bảo hộ chương trình máy tính là Bảo hộ chương trình máy tính theo bằng độc quyền sáng chế và Bảo hộ chương trình máy tính theo bản quyền tác giả.
Bảo hộ chương trình máy tính theo bằng độc quyền sáng chế: Điều 27.1 Hiệp định TRIPS quy định sáng chế có trong tất cả các lĩnh vực công nghệ, với điều kiện là sáng chế phải mới, liên quan đến một bước sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp, tùy thuộc vào một số ngoại lệ hạn chế nhất định. Yêu cầu chung về khả năng cấp bằng độc quyền sáng chế này đã thúc đẩy một cuộc tranh luận về vấn đề nên có một đường phân định giữa bảo hộ theo bản quyền tác giả và theo sáng chế đối với các chương trình máy tính.
Tại nhiều quốc gia, các sáng chế liên quan đến phần mềm là đối tượng có thể cấp bằng độc quyền sáng chế nếu các phần mềm có đặc tính kỹ thuật hoặc liên quan đến giảng dạy kỹ thuật. Nghĩa là, một chỉ dẫn hướng tới một người có trình độ kỹ thuật trung bình về việc làm thế nào để giải quyết một vấn đề kỹ thuật cụ thể sử dụng một phương tiện kỹ thuật. Với điều kiện phần mềm tạo ra hiệu quả kỹ thuật, sau đó phải xem xét liệu có đáp ứng các điều kiện để có thể cấp bằng độc quyền sáng chế hay không.
Bảo hộ chương trình máy tính theo bản quyền tác giả: các chương trình máy tính dạng mã đối tượng chia sẻ quan hệ pháp lý về quyền tác giả của các tác phẩm văn học và nghệ thuật khác được lưu trữ trong hệ thống máy tính dạng máy có thể đọc được. Trong khi các chương trình máy tính là không thể hiểu được ở dạng mã đối tượng. Các chương trình máy tính có thể được truy xuất thành dạng mã nguồn khi mà các chương trình có thể hiểu được. Người ta thường thừa nhận rằng, tất cả các loại hình tác phẩm được bảo hộ chống lại việc lưu trữ dưới dạng kỹ thuật số. Bởi vì hình thức lưu trữ như vậy là một quá trình tái tạo, nhân bản và trong vấn đề này nó không phải là vấn đề, ví dụ như một tác phẩm âm nhạc không thể nhận thức được một cách trực tiếp từ đĩa CD mà chỉ có thể nhận thức được sau khi được giải mã đã được thực hiện trong máy đọc CD.
Điều kiện tiên quyết bình thường để bảo hộ bản quyền tác giả một tác phẩm phải là nguyên gốc, là phù hợp để được áp dụng vào các chương trình máy tính. Mặc dù hầu hết các chương trình gồm có các thành phần chương trình con mà bản thân các chương trình con này khó đáp ứng yêu cầu là tác phẩm gốc. Sự kết hợp của các thành phần đó và việc cấu trúc các chương trình với ngoại lệ của một số rất ít các chương trình đơn giản, đem lại đủ tính sáng tạo. Các ý tưởng và các phương thức tóm tắt để giải quyết các vấn đề (các thuật toán) không được bảo hộ theo pháp luật về bản quyền tác giả. Luật hạn chế bảo hộ đối với sự thể hiện các ý tưởng và thuật toán như vậy, nhưng điều này thực tế là kết quả mong muốn của việc bảo hộ quyền tác giả: sự bảo hộ phù hợp được quy định mà không tạo ra những cản trở bất hợp lý đối với việc sáng tạo độc lập các chương trình như vậy.
Người ta lập luận rằng, thời hạn bảo hộ đối với các tác phẩm văn học là 50 năm sau khi tác giả chết theo quy định của Công ước Berne, là quá dài đối với các chương trình máy tính vì các chương trình đó thường trở nên lỗi thời trong thời gian ngắn hơn nhiều. Lập luận tương tự áp dụng đối với một số loại hình tác phẩm văn học và nghệ thuật khác. Thực tế, nếu một tác phẩm lỗi thời, tác phẩm đó sẽ không được sử dụng và do vậy việc bảo hộ cũng sẽ không được viện dẫn. Thời hạn bảo hộ theo Công ước Berne nên được xem xét về hạn chế cao hơn đối với các tác phẩm đó mà thực tế có lợi cho người sử dụng.
Pháp luật quốc tế về bảo hộ chương trình máy tính
Vào những năm 1970 và nửa đầu những năm 1980, các cuộc thảo luận quốc tế tập trung liên quan đến việc bảo hộ phần mềm máy tính đã diễn ra, chủ yếu tập trung vào việc giải quyết vấn đề liệu việc bảo hộ nên theo luật bản quyền tác giả hay luật sáng chế, hoặc có thể theo hệ thống bảo hộ riêng.
Một Hội đồng các chuyên gia đã được WIPO và UNESCO cùng triệu tập vào tháng 2 và tháng 3 năm 1985, đánh dấu một bước tiến đột phá trong việc lựa chọn bản quyền tác giả là hình thức phù hợp với bảo hộ chương trình máy tính mà có thể được so sánh với các tác phẩm văn học. Một vài tháng sau đó, một số quốc gia đã thông qua các văn bản pháp luật làm rõ các chương trình máy tính được coi là các tác phẩm, đối tượng của bảo hộ quyền tác giả. Từ đó, toàn thế giới đã chấp nhận một cách rộng rãi nên áp dụng bảo hộ quyền tác giả hơn là việc quy định một hệ thống bảo hộ riêng.
Có nhiều lý do quan trọng để lựa chọn bảo hộ quyền tác giả. Trước hết, các chương trình máy tính về cơ bản là tác phẩm viết. Theo Điều 2.1 của Công ước Berne, mục đích đối với tác phẩm viết là không liên quan tới quan điểm đánh giá các tác phẩm đó như các tác phẩm văn học, nếu các tác phẩm đó là những sáng tạo trí tuệ gốc.
Mặc dù các chương trình máy tính như cách thể hiện bằng chữ có thể được bảo hộ theo bản quyền tác giả, nếu các ý tưởng phía sau chương trình máy tính bao gồm các đặc điểm kỹ thuật đem lại những giải pháp kỹ thuật thì việc thể hiện các ý tưởng đó có thể là đối tượng được cấp bằng độc quyền sáng chế.
Sự thống nhất quốc tế liên quan đến việc bảo hộ bản quyền tác giả các chương trình máy tính đã được phản ánh trong hai điều ước quốc tế: Điều 10.1 của Hiệp định TRIPS và Điều 4 của Hiệp định của WIPO về Bản quyền tác giả (WCT). Trong khi có khác biệt trong cách dùng từ, cả hai quy định này đều cho rằng, các chương trình máy tính nên được bảo hộ như các tác phẩm văn học và việc bảo hộ cũng tương tự như các tác phẩm đó được bảo hộ theo Công ước Berne về bảo hộ quyền tác giả. Điều này không loại trừ luật pháp quốc gia có thể phân loại các chương trình máy tính thành các loại hình tác phẩm riêng biệt, với điều kiện là mức độ bảo hộ không được thấp hơn so với bảo hộ các tác phẩm văn học theo Công ước. Hiệp định TRIPS cũng làm rõ rằng, việc bảo hộ áp dụng cho các chương trình máy tính đủ là mã nguồn hay mã đối tượng, trong khi đó WCT quy định tương tự dưới hình thức ít tính kỹ thuật. Việc bảo hộ như vậy áp dụng cho các chương trình máy tính, bất kể cách thức và hình thức thể hiện của chúng.
Công ước Berne có một số quy định liên quan đến quyền phân phối. Đó là quyền kiểm soát không những việc bán ban đầu các bản sao tác phẩm mà còn cả việc phân phối các bản sao sau này, như việc cho thuê hoặc cho mượn. Tuy nhiên, quyền này ngày càng trở nên quan trọng nhất là khi các tác phẩm được thể hiện trong các phương tiện truyền thông kỹ thuật số, bao gồm các chương trình máy tính có liên quan. Các tác phẩm đó có thể được sao chép làm không bị giảm giá trị về tiêu chuẩn kỹ thuật.
Pháp luật Việt Nam về bảo hộ chương trình máy tính
Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005 được sửa đổi bổ sung năm 2022 đã định nghĩa chương trình máy tính: “Chương trình máy tính là tập hợp các chỉ dẫn được thể hiện dưới dạng lệnh, mã, lược đồ hoặc dạng khác, khi gắn vào một phương tiện, thiết bị được vận hành bằng ngôn ngữ lập trình máy tính thì có khả năng làm cho máy tính hoặc thiết bị thực hiện được công việc hoặc đạt được kết quả cụ thể. Chương trình máy tính được bảo hộ như tác phẩm văn học, dù được thể hiện dưới dạng mã nguồn hay mã máy”.
Tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả đối với chương trình máy tính có quyền thỏa thuận bằng văn bản với nhau về việc sửa chữa, nâng cấp chương trình máy tính. Tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng hợp pháp bản sao chương trình máy tính được làm một bản sao dự phòng để thay thế khi bản sao đó bị xóa, bị hỏng hoặc không thể sử dụng nhưng không được chuyển giao cho tổ chức, cá nhân khác.
Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam cũng thừa nhận những trường hợp ngoại lệ tại Điều 25.1 các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền bản quyền nhưng phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm bao gồm: Tự sao chép một bản để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại. Quy định này không áp dụng trong trường hợp sao chép bằng thiết bị sao chép; sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại; sử dụng hợp lý tác phẩm để minh họa trong bài giảng nhằm mục đích giảng dạy. Việc sử dụng này có thể bao gồm việc cung cấp trong mạng máy tính nội bộ với điều kiện phải có các biện pháp kỹ thuật để bảo đảm chỉ người học và người dạy trong buổi học đó có thể tiếp cận tác phẩm này; sử dụng tác phẩm trong hoạt động công vụ của cơ quan nhà nước; trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận, giới thiệu hoặc minh họa trong tác phẩm của mình; để viết báo, sử dụng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát sóng, phim tài liệu; sử dụng tác phẩm trong hoạt động thư viện không nhằm mục đích thương mại, bao gồm sao chép tác phẩm lưu trữ trong thư viện để bảo quản, với điều kiện bản sao này phải được đánh dấu là bản sao lưu trữ và giới hạn đối tượng tiếp cận theo quy định của pháp luật về thư viện, lưu trữ; sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép cho người khác phục vụ nghiên cứu, học tập; sao chép hoặc truyền tác phẩm được lưu giữ để sử dụng liên thông thư viện thông qua mạng máy tính, với điều kiện số lượng người đọc tại cùng một thời điểm không vượt quá số lượng bản sao của tác phẩm do các thư viện nói trên nắm giữ, trừ trường hợp được chủ sở hữu quyền cho phép và không áp dụng trong trường hợp tác phẩm đã được cung cấp trên thị trường dưới dạng kỹ thuật số; nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng cá nhân, không nhằm mục đích thương mại.
Pháp Luật sở hữu trí tuệ cũng quy định chi tiết những hành vi bị coi là xâm phạm quyền tác giả đối với chương trình máy tính, bao gồm: (i) hành vi cố ý hủy bỏ hoặc làm vô hiệu biện pháp công nghệ hữu hiệu do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình nhằm thực hiện hành vi quy định tại Điều này và Điều 35 của Luật này; (ii) hành vi sản xuất, phân phối, nhập khẩu, chào bán, bán, quảng bá, quảng cáo, tiếp thị, cho thuê hoặc tàng trữ nhằm mục đích thương mại các thiết bị, sản phẩm hoặc linh kiện, giới thiệu hoặc cung cấp dịch vụ khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị, sản phẩm, linh kiện hoặc dịch vụ đó được sản xuất, sử dụng nhằm vô hiệu hóa biện pháp công nghệ hữu hiệu bảo vệ quyền tác giả; (iii) hành vi cố ý xóa, gỡ bỏ hoặc thay đổi thông tin quản lý quyền mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả khi biết hoặc có cơ sở để biết việc thực hiện hành vi đó sẽ xúi giục, tạo khả năng, tạo điều kiện thuận lợi hoặc che giấu hành vi xâm phạm quyền tác giả theo quy định của pháp luật.
Từ những phân tích ở trên có thể thấy rằng, việc bảo hộ chương trình máy tính là hết sức cần thiết để khuyến khích việc sáng tạo hơn nữa các chương trình máy tính. Các quốc gia trên thế giới đã, đang và sẽ tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp luật về sở hữu trí tuệ đối với chương trình máy tính này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. WIPO (1886), Công ước Berne về Bảo hộ Quyền tác giả.
2. WIPO (1996), Hiệp định về Bản quyền tác giả (WCT).
3. WTO (1994), Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên quan đến sở hữu trí tuệ (TRIPS).
4. WIPO và UNESCO (1982), Báo cáo và các khuyến nghị của Ủy ban thứ hai các Chuyên gia Chính phủ về vấn đề bản quyền tác giả phát sinh từ việc sử dụng máy tính để truy cập hoặc sáng tạo tác phẩm.
5. Quốc hội Việt Nam (2005, 2022), Luật sở hữu trí tuệ.
6. Chính phủ Việt Nam (2006), Nghị định 105/2006/NĐ-CP hướng dẫn Luật sở hữu trí tuệ về Bản quyền tác giả.