Từ khung lý thuyết
Trong báo cáo đề dẫn với chủ đề “Những vấn đề chung trong phát triển chuỗi giá trị nông sản hướng tới nông nghiệp bền vững trong bối cảnh hội nhập tại Đông Nam Á: Chính sách và thực tiễn”, PGS.TS Nguyễn An Thịnh - Trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN cho biết: “Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác có nền nông nghiệp lâu đời, sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng quan trọng trong GDP (trừ Singapore và Brunei). Campuchia, Myanmar, Lào, Việt Nam, Indonesia và Philippines là các quốc gia có tỷ trọng nông nghiệp trong GDP đạt trên 10% vào năm 2020, trong đó cao nhất là Campuchia và Myanmar đạt 22,8% (theo databank.worldbank.org).
Trong khuôn khổ nghiên cứu của Hội thảo, các nhà khoa học của Trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN đã kết hợp khung lý thuyết chuyển đổi sinh thái - xã hội (SET) và khung phân tích áp lực - thực trạng - đáp ứng (PSR) để nghiên cứu tác động kép của biến đổi khí hậu và Covid-19 tới nông nghiệp và an ninh lương thực, tạo nên những ưu thế riêng biệt cho nghiên cứu. Khung SET có ưu thế trong thiết kế mô hình lý thuyết, định hướng nghiên cứu sản xuất nông nghiệp nhằm mục tiêu đưa ra đề xuất về chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp để hướng tới phát triển nông nghiệp và hệ thống lương thực vì mục tiêu phát triển bền vững và thích ứng với các tác động của biến đổi khí hậu và Covid-19. Khung PSR có ưu thế trong thiết kế nghiên cứu đánh giá tác động kép của biến đổi khí hậu và Covid-19 theo tiếp cận chỉ số hóa. Tiếp cận kết hợp khung SET và khung PSR cho phép vận dụng được thế mạnh của hai khung lý thuyết này để thực hiện thiết kế nghiên cứu đánh giá tác động và đề xuất chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững, đảm bảo an ninh lương thực trong bối cảnh tác động của các khủng hoảng dài hạn và ngắn hạn ở các quy mô lãnh thổ khác nhau.
PGS.TS Nguyễn An Thịnh - Trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN trình bày khung lý thuyết trong nghiên cứu, đánh giá chuỗi giá trị nông sản.
Từ đó, kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp thông tin chính xác, cập nhật cho các nhà nghiên cứu cũng như các nhà quản lý, những người ra quyết định trong lĩnh vực phát triển nông nghiệp bền vững, ứng phó khủng hoảng trong nông nghiệp và phát triển thương mại nông sản tại Việt Nam và các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Đến những phân tích chuyên sâu về nông nghiệp Việt Nam
PGS.TS Đào Thế Anh - Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) cho biết: các dự báo và thực tế biến đổi khí hậu toàn cầu những năm gần đây cho thấy, Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của Biến đổi khí hậu. Việt Nam cần có những hành động cụ thể để đẩy mạnh hợp tác, tạo thêm ngoại lực hỗ trợ thúc đẩy hình thành và phát triển hệ thống lương thực thực phẩm thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu và bền vững, đảm bảo an ninh lương thực và dinh dưỡng không chỉ cho gần 100 triệu người Việt Nam mà còn góp phần đảm bảo an ninh lương thực thế giới, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch Covid-19 vẫn còn diễn biến phức tạp. Mặt khác, tài nguyên cho sản xuất nông nghiệp ngày càng khan hiếm hơn và tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt đang là những thách thức lớn để đảm bảo an ninh lương thực cho 7,9 tỷ dân trên toàn thế giới. Vì vậy, trong thập kỷ hành động này, hệ thống lương thực thực phẩm đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong nỗ lực để đạt được tất cả 17 Mục tiêu phát triển bền vững. Thêm vào đó, với sự gia tăng giá hàng hóa toàn cầu, bao gồm cả thực phẩm đã đặt ra một loạt thách thức mới đối với khả năng duy trì con đường tăng trưởng bền vững và công bằng xã hội của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Nghiên cứu của các chuyên gia được công bố trong Hội thảo đã tập trung phân tích về vấn đề an ninh lương thực, chủ quyền lương thực và các chính sách về an ninh lương thực của Việt Nam nhằm thực hiện đề án Đảm bảo an ninh lương thực đến 2030 mới được ban hành năm 2020. Các chuyên gia đã đề xuất nhóm giải pháp nhằm đạt các mục tiêu của phát triển bền vững, bao gồm: đảm bảo mọi người tiếp cận được thực phẩm an toàn và dinh dưỡng; chuyển đổi sang tiêu dùng bền vững; đẩy mạnh sản xuất bền vững; xây dựng các chuỗi giá trị cạnh tranh, bao trùm và bình đẳng; tăng cường khả năng thích ứng với tổn thương, cú sốc và sức ép.
Việt Nam đã có nhiều chính sách thực hiện đảm bảo vấn đề an ninh lương thực và chủ quyền lương thực, trong đó quan tâm nhiều đến chính sách phát triển hệ thống lương thực, thực phẩm nhằm hướng đến thúc đẩy hành động để đạt được 17 Mục tiêu phát triển bền vững (SDG) vào năm 2030. Tuy nhiên, nhiều chính sách hiện vẫn còn chồng chéo và chưa được phù hợp để áp dụng trong các bối cảnh diện rộng. Ví dụ chương trình hành động quốc gia nhằm không còn nạn đói vào năm 2025 cần được lồng ghép vào chiến lược an ninh lương thực. Nhận thức của xã hội và các địa phương về an ninh dinh dưỡng và an toàn thực phẩm cũng cần được quan tâm từ cấp địa phương. Tiêu chí về dinh dưỡng bình quân đầu người nên tham khảo Chương trình “Không còn người đói”: tỷ lệ người có mức calo thấp hơn 1.800 kcal là dưới 5% vào năm 2025, do đó đến năm 2030 có thể là dưới 4%, điều này dễ dàng hơn để theo dõi các nhóm suy dinh dưỡng hơn so với việc sử dụng mức dinh dưỡng trung bình.
Và xác định tầm nhìn chiến lược cũng như khuyến nghị chính sách
Các chuyên gia của Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp, Bộ NN&PTNT đã đưa ra Tầm nhìn quy hoạch nông nghiệp đến năm 2050 với các mục tiêu chính: phát triển nông nghiệp hiện đại, vào Top 10-12 nước nông nghiệp phát triển nhất thế giới, là một trong những trung tâm sản xuất, chế biến và thương mại nông sản hàng đầu thế giới; nông nghiệp Việt Nam trở thành một trung tâm chế biến sâu của nông nghiệp thế gới, trung tâm logistic của thương mại nông sản toàn cầu, sản xuất hàng hóa lớn gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển bền vững và chủ động thích ứng với biến đối khí hậu, kết nối bền vững chuỗi nông sản toàn cầu; phát triển nông nghiệp xanh như nông nghiệp sinh thái, hữu cơ, tuần hoàn, nông nghiệp sạch, có trình độ sản xuất nông nghiệp hữu cơ ngang bằng các nước tiên tiến thế giới; tỷ lệ nông sản được chứng nhận sản xuất bền vững trên 60%; GDP của ngành nông nghiệp tăng 3-4%, thu nhập từ chế biến nông sản tăng 5-7%/năm, năng suất lao động nông nghiệp tăng trên 7%/năm.
Trên cơ sở lý thuyết và phân tích chuyên sâu trong các lĩnh vực của ngành nông nghiệp Việt Nam nói riêng, Đông Nam Á nói chung, các chuyên gia đã đề xuất nhiều giải pháp có giá trị khuyến nghị chính sách cao. PGS.TS Nguyễn An Thịnh nhấn mạnh, để phát triển chuỗi giá trị nông sản, ngành nông nghiệp Việt Nam cần phát huy tác động tích cực của các FTA thế hệ mới, hỗ trợ việc tích hợp sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu của nông sản Việt Nam; thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp; áp dụng chuyển đổi số, mạng xã hội, ICT; chuyển đổi mô hình phát triển nông nghiệp và hệ thống lương thực vì mục tiêu phát triển bền vững và chống chịu khủng hoảng; nông nghiệp thông minh thích ứng biến đổi khí hậu (CSA). Ngoài ra, Việt Nam cần phát triển các mô hình chuyển đổi sinh thái - xã hội (SET) cũng như các mô hình phát triển năng suất xanh (GP).
TS Lê Thanh Hòa, Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam, Bộ NN&PTNT cho biết, Việt Nam đã thực thi các cam kết của Hiệp định về Các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (Agreement on Sanitary and Phytosanitary Measures - SPS) trong phát triển giá trị chuỗi nông sản. SPS ra đời bắt đầu có hiệu lực vào ngày 01/1/1995, nêu ra những quy định được thiết kế để ngăn ngừa tình trạng lạm dụng các quy định về an toàn và sức khỏe như là những phương tiện không minh bạch nhằm bảo vệ các nhà sản xuất trong nước. Hiệp định đưa các nguyên tắc và điều kiện mà các nước thành viên WTO phải tuân thủ khi ban hành và áp dụng các biện pháp SPS để cân bằng các lợi ích thương mại giữa các quốc gia thành viên WTO.
Từ việc phân tích cơ hội, thách thức và hạn chế khi thực hiện SPS, các chuyên gia đã đề xuất các nhóm giải pháp về thể chế, chính sách, trong đó nhấn mạnh cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách để thực hiện đầy đủ các cam kết của WTO, FTA về các biện pháp SPS theo lộ trình đã đề ra. Trong việc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp quy hiện hành, cần đảm bảo tính đồng bộ, hiệu quả. Từ phía Chính phủ, cần đẩy mạnh công tác xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu liên quan, quy định quản lý SPS của các nước thành viên FTA cho các doanh nghiệp. Tiếp tục thúc đẩy thực thi đầy đủ các cam kết của Việt Nam trong các hiệp định đa phương về môi trường, bảo tồn và bảo vệ động, thực vật hoang dã. Chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học.
Thùy Dung