Sử dụng VLXKN ở Việt Nam
Ở thời điểm năm 2010, nước ta sản xuất hơn 20 tỷ viên GĐSN và có rất nhiều lò gạch thủ công hoạt động. Tuy nhiên, sản xuất GĐSN đã làm tiêu tốn hàng nghìn ha đất nông nghiệp, hàng triệu tấn than mỗi năm. Theo tính toán, để sản xuất 1 tỷ viên gạch đất sét nung có kích thước tiêu chuẩn sẽ tiêu tốn khoảng 1,5 triệu m3 đất sét, tương đương 75 ha đất nông nghiệp (độ sâu khai thác là 2 m) và 150.000 tấn than, đồng thời thải ra khoảng 600.000 tấn khí CO2 và các khí thải độc hại khác gây ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó, việc sử dụng GĐSN còn làm khó quá trình công nghiệp hóa ngành xây dựng. Vì vậy, thay thế GĐSN bằng VLXKN sẽ đem lại nhiều hiệu quả tích cực về các mặt kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường.
Sản xuất gạch đất sét nung truyền thống đang gây ô nhiễm môi trường và tiêu tốn tài nguyên đất.
Đứng trước tình trạng nguồn tài nguyên đất bị ảnh hưởng nghiêm trọng, cũng như nguy cơ gây ô nhiễm môi trường do đốt than ở các lò gạch thủ công phát thải trực tiếp ra môi trường, trong khi nhu cầu về vật liệu xây ngày càng tăng để đáp ứng tốc độ xây dựng nhà ở, phát triển đô thị…, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản nhằm hạn chế sản xuất GĐSN và thúc đẩy phát triển VLXKN, bao gồm: Quyết định 567/QĐ-TTg ngày 28/4/2010 về việc phê duyệt Chương trình phát triển vật liệu xây không nung đến năm 2020; Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 16/4/2012 về việc tăng cường sử dụng VLXKN và hạn chế sản xuất, sử dụng GĐSN; Quyết định 1469/QĐ-TTg về phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển VLXD Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030; Nghị định số 24a/2016/NĐ-CP ngày 5/4/2016 về quản lý vật liệu xây dựng (VLXD)… Bên cạnh đó, Bộ Xây dựng cũng có nhiều chính sách nhằm tăng cường sử dụng VLXKN như: Quyết định số 890/QĐ-BXD ngày 29/07/2015 phê duyệt chương trình khoa học công nghệ trọng điểm cấp Bộ giai đoạn 2015-2020: “Nghiên cứu phát triển vật liệu xây và cấu kiện không nung cho công trình xây dựng đến năm 2020” trong đó đều nêu rõ nội dung cơ chế, chính sách, nghiên cứu phát triển VLXKN; Thông tư số 13/2017/TT-BXD ngày 08/12/2017 về quy định sử dụng VLXKN trong các công trình xây dựng… Gần đây nhất, tại văn bản số 14/TB-VPCP ngày 9/1/2018 của Văn phòng Chính phủ, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đã chỉ đạo UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: “dừng đầu tư mới, đầu tư mở rộng các cơ sở sản xuất GĐSN”. Bộ Xây dựng đồng thời đã thường xuyên rà soát xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn liên quan đến VLXKN; ban hành Quyết định số 1264/QĐ-BXD ngày 18/12/2017 về công bố Định mức dự toán xây dựng công trình - Phần xây dựng (sửa đổi, bổ sung) - Công tác sử dụng VLXKN.
Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự vào cuộc của Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Xây dựng và các tỉnh/thành phố, việc phát triển VLXKN giảm dần sử dụng GĐSN đã đạt được nhiều kết quả tích cực: năm 2019, sản lượng VLXKN toàn quốc đạt gần 6 tỷ viên, chiếm khoảng 25% tổng sản lượng vật liệu xây (trong khi năm 2010 chỉ chiếm khoảng 8%). Hiện đã có 35/63 tỉnh có chỉ thị của UBND về việc xóa bỏ sản xuất gạch nung thủ công và tăng cường sử dụng VLXKN; 45/63 tỉnh đã xây dựng kế hoạch, lộ trình giảm sản xuất GĐSN.
Trong giai đoạn 10 năm vừa qua, lĩnh vực sản xuất VLXKN đã có sự tăng trưởng nhanh về quy mô và công suất, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước. Chất lượng sản phẩm không ngừng được nâng cao, chủng loại và mẫu mã sản phẩm đã được đa dạng hóa. Nhiều doanh nghiệp đã đẩy mạnh đầu tư đổi mới công nghệ, từng bước làm chủ công nghệ sản xuất nhiều chủng loại VLXKN… Tuy nhiên, do thói quen đã ăn sâu vào suy nghĩ của nhiều thế hệ người dân Việt Nam về việc sử dụng GĐSN truyền thống nên sản lượng VLXKN không tăng nhanh như dự kiến; phần lớn các nhà sản xuất gạch bê tông vẫn sản xuất gạch xây đặc, với kích thước nhỏ tương tự GĐSN. Bên cạnh đó, việc sản xuất VLXKN còn phân tán ở nhiều nơi với các cơ sở sản xuất nhỏ nên các cơ quan quản lý khó kiểm soát được chất lượng, cũng như các đặc tính kỹ thuật của sản phẩm. Đặc biệt, các sản phẩm gạch block nhẹ, gạch bê tông khí chưng áp, bê tông bọt… còn gặp khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Giải pháp phát triển VLXKN ở Việt Nam
Phát triển VLXKN ở nước ta đã đi qua giai đoạn 10 năm khởi đầu với nhiều thuận lợi từ chính sách ưu đãi của nhà nước nhưng cũng đã gặp phải không ít khó khăn thách thức từ vấn đề công nghệ sản xuất, thị trường, thị hiếu người sử dụng, chất lượng sản phẩm khi đưa vào công trình. Để tiếp tục phát triển VLXKN trong thời gian tới, từ kinh nghiệm phát triển tại một số nước trên thế giới, chúng tôi xin đưa ra một số khuyến nghị để Việt Nam tham khảo bao gồm:
Một là, cần tiếp tục thực thi triệt để chủ trương của Chính phủ về giảm dần GĐSN truyền thống, xoá bỏ lò thủ công, thủ công cải tiến, lò vòng, lò vòng cải tiến sử dụng nhiên liệu hoá thạch (than, dầu, khí) và lò đứng liên tục sản xuất GĐSN. Có chính sách về thuế đối với các doanh nghiệp sản xuất GĐSN truyền thống theo hướng tăng các loại thuế về tài nguyên, môi trường.
Hai là, đa dạng hóa các sản phẩm VLXKN có kích thước lớn, cấu kiện, tấm tường, vật liệu nhẹ… nhằm giảm thời gian thi công, hạ giá thành xây dựng. Sử dụng tối đa các loại chất thải của các ngành công nghiệp (tro, xỉ than, xỉ luyện kim...) làm nguyên liệu để sản xuất VLXKN, nhằm tiết kiệm tài nguyên khoáng sản.
Ba là, sử dụng công nghệ tiên tiến, dây chuyền thiết bị hiện đại nhằm cơ giới hóa, tự động hóa quá trình sản xuất. Phấn đấu hơn 50% nhà máy ứng dụng robot vào trong dây chuyền sản xuất. Khuyến khích các viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp sản xuất vật liệu cùng kết hợp đầu tư nghiên cứu khoa học và áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất nhằm đa dạng hóa chủng loại sản phẩm; nâng cao tính năng, chất lượng sản phẩm; áp dụng cơ giới hóa, tự động hóa để tăng năng suất lao động; tăng cường sử dụng phế thải làm nguyên, nhiên liệu; giảm tiêu hao nguyên vật liệu; nâng cao công tác bảo vệ môi trường, an toàn và vệ sinh lao động; sản xuất thiết bị, phụ tùng thay thế mà trong nước chưa sản xuất được. Phát huy vai trò quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ; hỗ trợ cung cấp thông tin công nghệ cho doanh nghiệp trước khi quyết định đầu tư; làm cầu nối giữa doanh nghiệp với các trường đại học, viện nghiên cứu để triển khai ứng dụng khoa học và công nghệ, đáp ứng nhu cầu đổi mới công nghệ của doanh nghiệp.
Bốn là, bổ sung các cơ chế, chính sách ưu đãi về thuế đối với các hoạt động phát triển VLXKN như: thuế nhập khẩu thiết bị, phụ tùng; thuế thu nhập doanh nghiệp; thuế giá trị gia tăng và các ưu đãi khác. Cần có cơ chế ưu đãi vốn vay cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất VLXKN từ Ngân hàng Chính sách Xã hội nhằm tạo thuận lợi hơn nữa về nguồn vốn cho doanh nghiệp sản xuất và cho người sử dụng.
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức, nội dung liên quan đến sản xuất và sử dụng VLXKN đến các chủ đầu tư, nhà thầu, đơn vị tư vấn thiết kế, giám sát và người dân.
Sử dụng VLXKN là góp phần bảo vệ tài nguyên và môi trường.