Sự cần thiết xây dựng bộ chỉ số đổi mới sáng tạo địa phương
Ở cấp quốc gia, từ năm 2017, như nhiều quốc gia khác trên thế giới, Chính phủ đã sử dụng bộ chỉ số đổi mới sáng tạo (ĐMST) toàn cầu (GII) do Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới WIPO công bố hằng năm nhằm qua đó xác định các điểm mạnh, điểm yếu của quốc gia để từ đó đưa ra các giải pháp, biện pháp cải thiện phù hợp, cũng như để kịp thời xây dựng, ban hành các chính sách có liên quan. Tại Nghị quyết hằng năm, Chính phủ phân công cụ thể đến từng bộ, ngành để chủ trì theo dõi và cải thiện các chỉ số Việt Nam còn yếu kém, đồng thời giao Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) làm đầu mối điều phối, theo dõi chung. Dưới sự chỉ đạo, điều hành sát sao, cụ thể của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, của các Phó thủ tướng Chính phủ và sự vào cuộc hiệu quả của các bộ, ngành, trong những năm qua kết quả chỉ số GII của Việt Nam luôn có sự cải thiện tích cực. Trong Báo cáo GII 2022 của WIPO, Việt Nam tiếp tục được WIPO ghi nhận là quốc gia có điểm số cao hơn nhiều so với mức trung bình của các nước cùng nhóm thu nhập. Trong 12 năm liền, Việt Nam luôn có kết quả ĐMST cao hơn so với mức độ phát triển, cho thấy hiệu quả trong việc chuyển các nguồn lực đầu vào thành kết quả đầu ra ĐMST. Việt Nam là một trong số ít những quốc gia thu nhập trung bình thấp được WIPO ghi nhận có tốc độ bắt kịp về ĐMST nhanh nhất (cho dù thứ hạng năm 2022 có giảm nhẹ).
Ở cấp địa phương, qua theo dõi thực tế cho thấy, các địa phương còn lúng túng trong việc tham gia thực hiện Nghị quyết của Chính phủ về cải thiện chỉ số GII cấp quốc gia. Một trong những lí do là chỉ số GII đánh giá ở cấp quốc gia nên nhiều số liệu thống kê tương tự ở cấp địa phương là không có, đồng thời phương pháp đánh giá theo quy chuẩn quốc tế còn mới lạ nên có những điểm không phù hợp với cấp địa phương của Việt Nam. Bên cạnh đó, do có sự khác biệt giữa các địa phương về quy mô KT-XH, về dân số, về đất đai, về cơ cấu kinh tế, về định hướng phát triển... nên các địa phương cần và phải lựa chọn mô hình phát triển KT-XH dựa trên KH,CN&ĐMST khác nhau, phù hợp với bối cảnh, điều kiện, đặc điểm riêng có của địa phương mình. Những vấn đề trên làm cho các địa phương không nắm được thực trạng mô hình phát triển KT-XH dựa trên KH,CN&ĐMST của địa phương mình, do đó nhiều địa phương kiến nghị cần có bộ chỉ số ĐMST dành riêng cho địa phương để căn cứ vào đó có thể chỉ đạo điều hành tốt hơn, sát với thực tiễn hơn.
Đo lường chỉ số ĐMST địa phương
Thực hiện phân công của Chính phủ tại cuộc họp thường kỳ tháng 1/2022 (Nghị quyết 12/NQ-CP ngày 30/01/2022), trong thời gian qua, Bộ KH&CN đã tích cực phối hợp với Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) và các cơ quan liên quan xây dựng bộ chỉ số ĐMST cấp địa phương và đã tổ chức triển khai thử nghiệm tại 20 tỉnh/thành phố ở 6 vùng kinh tế, có mức thu nhập khác nhau, cơ cấu kinh tế khác nhau, đủ tiêu chí để đại diện cho tất cả 63 tỉnh/thành phố trên phạm vi toàn quốc.
Được sự hỗ trợ kỹ thuật của WIPO, trên cơ sở nghiên cứu và tham khảo kinh nghiệm xây dựng các bộ chỉ số cấp địa phương đã có trong nước (PCI, PAR, PAPI…) và kinh nghiệm nước ngoài (trên thế giới mới chỉ có một số quốc gia xây dựng bộ chỉ số ĐMST cấp địa phương như Trung Quốc, Ấn Độ, Columbia, Mỹ..., trong đó, Ấn Độ và Columbia cũng dựa trên bộ GII của WIPO), Bộ KH&CN đã xây dựng bộ chỉ số cấp địa phương theo 10 bước như hướng dẫn của OECD cho xây dựng bộ chỉ số tổng hợp, phù hợp với bối cảnh thực tiễn, đặc điểm của các địa phương ở Việt Nam. Bộ chỉ số ĐMST cấp địa phương của Việt Nam có 51 chỉ số, chia làm 7 trụ cột theo nguyên lý của bộ chỉ số GII (05 trụ cột đầu vào phản ánh những yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển KT-XH dựa trên KH,CN&ĐMST, bao gồm: (1) Thể chế, (2) Nguồn nhân lực và nghiên cứu, (3) Cơ sở hạ tầng, (4) Trình độ phát triển của thị trường và (5) Trình độ phát triển kinh doanh; 02 trụ cột đầu ra phản ánh kết quả tác động của KH,CN&ĐMST vào phát triển KT-XH, bao gồm: (6) Sản phẩm tri thức, sáng tạo và công nghệ, (7) Tác động). Trong giai đoạn thiết kế khung chỉ số và các chỉ số thành phần, sự tham gia cố vấn kỹ thuật tích cực của tổ chức WIPO, sự phối hợp, chia sẻ kinh nghiệm của các bộ, cơ quan đã xây dựng thành công các chỉ số cấp địa phương tại Việt Nam, sự tham gia đóng góp ý kiến của các địa phương đã giúp cho Bộ KH&CN xây dựng và hoàn thiện được khung chỉ số và các chỉ số thành phần. Trong giai đoạn thu thập dữ liệu, Bộ KH&CN đã tổ chức nhiều hội thảo, nhiều buổi làm việc với các bộ, cơ quan Trung ương để trao đổi thống nhất thu thập dữ liệu từ các cơ quan quản lý nhà nước (có 37/51 chỉ số được lấy dữ liệu từ các cơ quan quản lý nhà nước). Đồng thời, với các địa phương, Bộ KH&CN đã xây dựng tài liệu hướng dẫn và tập huấn cho các địa phương để thu thập các dữ liệu liên quan tại địa phương (có 14/51 chỉ số được lấy dữ liệu từ các địa phương). Quá trình thử nghiệm bộ chỉ số cho thấy, do hệ thống thống kê của chúng ta còn chưa bắt kịp với quốc tế nên một số chỉ số theo thông lệ quốc tế hiện chưa được thống kê cả ở cấp quốc gia và địa phương. Vấn đề này sẽ cần phải quyết tâm khắc phục trong thời gian tới đây để đánh giá xác thực hơn hiện trạng của các địa phương cũng như của quốc gia. Trong giai đoạn xử lý, phân tích dữ liệu và xây dựng báo cáo, Bộ KH&CN đã tổ chức tính toán theo đúng các chuẩn mực quốc tế và sau đó đã gửi tới chuyên gia quốc tế độc lập (do WIPO chỉ định và chi trả kinh phí) để chuyên gia thực hiện đánh giá độc lập kết quả xây dựng và thử nghiệm bộ chỉ số trên nhiều góc độ: phương pháp thiết kế bộ chỉ số, độ tin cậy của dữ liệu, kết quả tính toán...
Kết quả thử nghiệm chỉ số ĐMST địa phương
Theo kết quả phân tích, đánh giá, các địa phương tham gia thử nghiệm được chia thành 04 nhóm, nhóm dẫn đầu gồm 02 địa phương; nhóm thứ hai gồm 04 địa phương; nhóm thứ ba gồm 08 địa phương, và 04 địa phương thuộc nhóm cuối cùng (có 2/20 địa phương không có đủ dữ liệu nên không đưa vào danh sách đánh giá). Kết quả đánh giá cho thấy có phù hợp, tương đồng cao với đặc thù mô hình phát triển KT-XH của các địa phương. Các địa phương thuộc nhóm dẫn đầu là các địa phương phát triển KT-XH và có hoạt động KH,CN&ĐMST mạnh mẽ. Các địa phương thuộc nhóm cuối là các địa phương có hạn chế trong phát triển KT-XH và trong hoạt động KH,CN&ĐMST. Với mỗi địa phương, kết quả đánh giá, xếp hạng của từng chỉ số (51 chỉ số), nhóm chỉ số và trụ cột được trình bày trong một bảng thông tin tổng hợp. Đồng thời, 05 điểm mạnh và 05 điểm yếu của mỗi địa phương cũng được chỉ rõ. Trên cơ sở các thông tin chi tiết này, các địa phương có thể nhận diện được các vấn đề cần chú trọng để từ đó có các chỉ đạo, điều hành trong việc xây dựng và thực hiện các biện pháp, giải pháp thúc đẩy phát triển KT-XH dựa trên KH,CN&ĐMST của địa phương, góp phần nâng cao năng lực kinh doanh, năng lực cạnh tranh, năng lực ĐMST của địa phương và của quốc gia
Trên cơ sở kết quả thử nghiệm thành công bộ chỉ số ĐMST cấp địa phương năm 2022, Bộ KH&CN xin kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cho phép chính thức triển khai bộ chỉ số ĐMST cấp địa phương trên phạm vi toàn quốc từ năm 2023 và đề nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục giao Bộ KH&CN: (i) phối hợp với tổ chức WIPO và các bộ, cơ quan, tổ chức liên quan triển khai chỉ số ĐMST cấp địa phương; (ii) hỗ trợ các địa phương trong việc tìm hiểu phương pháp, cách tính toán, ý nghĩa của các chỉ số xếp hạng và cách thức thu thập, cung cấp thông tin phục vụ đánh giá, xếp hạng; (iii) phối hợp với các cơ quan, địa phương tổ chức công bố kết quả đánh giá, xếp hạng hằng năm.
Kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu UBND các tỉnh, thành phố xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm hằng năm để thúc đẩy phát triển KT-XH của địa phương dựa trên KH,CN&ĐMST; bố trí nguồn lực để tổ chức thu thập và cung cấp dữ liệu kịp thời, chính xác để phục vụ tính toán; sử dụng các kết quả đánh giá vào công tác chỉ đạo, điều hành, xây dựng và thực hiện các biện pháp, giải pháp thúc đẩy phát triển KT-XH dựa trên KH,CN&ĐMST của địa phương; Giao các bộ, cơ quan, tổ chức nghiên cứu sử dụng, lồng ghép chỉ số ĐMST cấp địa phương vào trong chỉ số khác cũng như trong công công tác quản lý, điều hành có liên quan.
VH