
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng chủ trì buổi làm việc với khối viễn thông.
Những kết quả nổi bật trong lĩnh vực Viễn thông
Tại buổi làm việc, lãnh đạo 5 đơn vị đã báo cáo một số kết quả hoạt động nổi bật của các đơn vị và của lĩnh vực.

Cục trưởng Cục Viễn thông Nguyễn Thành Chung báo cáo tại buổi làm việc.
Cục trưởng Cục Viễn thông Nguyễn Thành Chung cho biết, tổng doanh thu lĩnh vực viễn thông năm 2024 đạt hơn 145.000 tỷ đồng tăng 2,31% so với cùng kỳ. Chỉ số hạ tầng viễn thông IDI tăng 6 bậc lên 72 trên thế giới. Việt Nam hiện có 6 tuyến cáp quang biển đang hoạt động (AAG, IA, AAE-1, APG, ADC, SJC2), 41 trung tâm dữ liệu, 16 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ. Việt Nam đã triển khai hơn 12.263 trạm 5G (gần 10,3% số trạm 4G), 100% các tỉnh, thành phố phủ sóng 26% dân số với hơn 12 triệu thuê bao 5G.
Thuê bao băng rộng cố định đạt tỷ lệ 24,4/100 dân, tăng 3,9% so với cùng kỳ. Tỷ lệ hộ gia đình sử dụng cáp quang là 85, %, cao hơn mức 60% trung bình thế giới. Việt Nam đứng top 20 về tốc độ mạng di động và top 26 về mạng cố định.

Cục trưởng Cục Tần số Vô tuyến điện Lê Văn Tuấn.
Cục trưởng Cục Tần số Vô tuyến điện Lê Văn Tuấn đã báo cáo một số thành tựu của Cục trong thời gian qua. Theo đó, đơn vị đã triển khai 4 cuộc đấu giá thành công; bổ sung thêm 320 MHz cho triển khai 5G (tăng 94% so với trước đấu giá). Việt Nam đứng hạng 4/10 trong ASEAN về lượng phổ tần đã cấp (tăng 5 bậc so với 2023). Việt Nam lọt top 19 thế giới, top 3 ASEAN về tốc độ Internet di động.
Cục Tần số Vô tuyến điện đã đột phá trong quản lý tần số vô tuyến điện, từ quản lý kỹ thuật đơn thuần sang kinh tế - kỹ thuật. Cục luôn quan tâm đến ảnh hưởng của sóng vô tuyến điện đến sức khỏe của người dân. Cục đã xây dựng Cổng thông tin điện tử về phơi nhiễm điện từ trường (EMF) để giám sát khách quan, hỗ trợ cơ quan giám sát khách quan về phơi nhiễm điện từ trường, giúp nâng cao năng lực quản lý; tăng cường niềm tin cộng đồng: cung cấp thông tin khảo sát và công bố về mức phơi nhiễm EMF... phù hợp với khuyến nghị các tổ chức quốc tế: ITU, ICNIRP, WHO.

Cục trưởng Cục Bưu điện Trung ương Trần Duy Ninh.
Thông tin về hoạt động của Cục Bưu điện Trung ương, Cục trưởng Trần Duy Ninh cho biết, đơn vị đã nâng cấp công nghệ, tăng cường năng lực lớp lõi, lớp phân phối mạng truyền số liệu chuyên dùng (TSLCD); thiết lập Trung tâm giám sát bưu chính KT1. Đồng thời, Cục đã triển khai nhiều nhiệm vụ cấp bách là điều phối, đôn đốc triển khai mạng của cơ quan Đảng trong 2 tuần, kết nối mạng xuống đến xã phường, đảm bảo hạ tầng thông suốt không gián đoạn khi sắp xếp bộ máy 2 cấp.

Giám đốc Trung tâm Internet Việt Nam Nguyễn Hồng Thắng.
Thông tin về hoạt động của VNNIC, Giám đốc Nguyễn Hồng Thắng cho biết, 100% hệ thống kỹ thuật, dịch vụ DNS, VNIX, tài nguyên an toàn, ổn định, đảm bảo cam kết chất lượng dịch vụ SLA (99,999%).
Đơn vị đã phát triển làm chủ nền tảng số, mở, gồm các nền tảng như i-Speed: đo tốc độ, hiệu quả tài nguyên, kết nối IPv6; Inernet Atlas: giám sát, thống kê, hoạch định, phát triển Internet, hạ tầng số; SRS-EPP: 100% hồ sơ được số hoá, xác thực, eKyc; IPMS liên thông quốc tế, 100% báo cáo, quản lý online; DNS abuse: Phản ánh, xử lý lạm dụng tên miền… Tên miền “.vn” được cấp miễn phí cho người dân, doanh nghiệp, hộ kinh doanh; mở không gian tên miền mới như ai.vn, id.vn, io.vn. 666.500, thứ 2 ASEAN, thứ 38 toàn cầu, tăng 8 bậc so với 2020. Đơn vị đã đột phá chuyển đổi IPv6 với tỷ lệ 65,5%, đứng thứ 7 toàn cầu, thứ 2 ASEAN với 3693 nhân lực kỹ thuật chuyển đổi IPv6.
Trao đổi về các xu thế phát triển viễn thông, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, hạ tầng viễn thông từ khi ra đời cho đến gần đây là hạ tầng thông tin liên lạc cơ bản (gọi điện, nhắn tin). Nhưng giờ đây, hạ tầng viễn thông đã chuyển thành hạ tầng của nền kinh tế. Nếu không có hạ tầng này, sẽ như không có điện, không có nước. Đây là một chuyển đổi rất quan trọng.
Theo xu thể phát triển, hạ tầng viễn thông đã chuyển đổi thành hạ tầng số. Khái niệm hạ tầng số sẽ rộng hơn rất nhiều. Trên hạ tầng viễn thông có Internet, trên Internet có hạ tầng số. Trên hạ tầng số còn có hạ tầng số vật lý và trên đó nữa là các tiện ích số. Từ trước đến nay, viễn thông chưa bao giờ được “sánh” với giao thông, chỉ được coi là quan trọng. Xu thế thế giới là chuyển từ quản lý hạ tầng sang quản lý nền tảng số, do vậy bây giờ cần chuyển sang các nền tảng số. Nền tảng số cũng là một loại hạ tầng.
Cục Viễn thông: Từ quản lý hạ tầng sang nền tảng và dịch vụ số
Đối với lĩnh vực viễn thông, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng lưu ý một số đổi mới cần quan tâm. Đầu tiên là cần chuyển từ quản lý hạ tầng sang quản lý nền tảng và dịch vụ số.
Mô hình quản lý truyền thống vốn tập trung vào hạ tầng vật lý đã đến lúc phải thay đổi. Quản lý dịch vụ khó hơn rất nhiều so với quản lý phần vật chất. Nhưng đây là sự thay đổi về triết lý, hiểu biết và nhận thức, nhắc lại kinh nghiệm quốc tế khi nhiều quốc gia chuyển từ quản lý hạ tầng sang quản lý dịch vụ và cách làm này có thể định hình sự phát triển của ngành trong giai đoạn tới.
Một trong những thay đổi chiến lược được Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đề cập là cạnh tranh. Trong hơn 20 năm qua, các nhà mạng chủ yếu cạnh tranh bằng hạ tầng theo kiểu "ai có mạng rộng hơn, nhiều trạm hơn sẽ chiếm ưu thế". Tuy nhiên, thực tế này khiến họ chỉ tập trung vào hạ tầng mà coi nhẹ một khía cạnh quan trọng khác là dịch vụ. Gợi mở những chính sách mạnh mẽ như các nhà mạng lớn phải chia sẻ hạ tầng cho nhà mạng nhỏ để tạo thế cân bằng và hình thành cạnh tranh dịch vụ thực sự. Việc này cũng nhằm khuyến khích các mạng di động ảo (MVNO) phát triển đúng hướng, sáng tạo dịch vụ mới cho người dùng.
Một ưu tiên khác được Bộ trưởng đề cập là đổi mới cách giám sát. Nếu trước đây quản lý chất lượng dịch vụ viễn thông chủ yếu bằng phương pháp thủ công, trên giấy tờ, nay phải chuyển sang mô hình trực tuyến, thời gian thực. Bộ trưởng đề nghị cần bắt buộc các nhà mạng kết nối API để dữ liệu tự động về cơ quan quản lý, từ đó giám sát liên tục chất lượng mạng, chất lượng dịch vụ. Các kết quả đo đạc cần minh bạch để toàn dân cùng giám sát.
Bộ trưởng cũng đặt ra yêu cầu phát triển "viễn thông xanh", trước thực trạng ngành viễn thông tiêu thụ lượng năng lượng lớn ở các trạm BTS, trung tâm dữ liệu. Thực tế này đòi hỏi cần có tiêu chuẩn rõ ràng về hiệu suất sử dụng điện của hệ thống. Bộ trưởng gợi ý cơ chế cho phép nhà mạng khai thác năng lượng mặt trời và bán phần điện dư thừa để tối ưu hóa chi phí, đồng thời phối hợp liên ngành trong quản lý.
Ngoài ra, Bộ trưởng yêu cầu Cục Viễn thông phát triển công cụ phân tích dữ liệu để điều tiết hoạt động viễn thông theo thời gian thực, phát hiện sớm dấu hiệu thao túng, độc quyền về giá cước. Hai nhiệm vụ thường bị bỏ quên là tiêu chuẩn và chiến lược. Tiêu chuẩn cần được cập nhật liên tục để dẫn dắt thị trường, thậm chí chuyển thành quy chuẩn bắt buộc. Cùng với đó, chiến lược phát triển viễn thông phải được rà soát hàng năm để bắt kịp xu hướng công nghệ.
Lĩnh vực tần số vô tuyến điện chuyển từ cấp phép cứng sang linh hoạt
Điểm nhấn trong chỉ đạo của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng với Cục Tần số Vô tuyến điện là chuyển đổi đấu giá linh hoạt hơn, cùng hình thức "cấp phép cứng" sang "cấp phép linh hoạt". Với tinh thần đó, các nhà mạng có thể phải bỏ ra số tiền lớn khi đấu giá tần số, nhưng sẽ nhận ưu đãi lớn nếu đạt điều kiện khi triển khai, như về số lượng trạm, vùng phủ, mức giá. Đặc biệt, để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, Bộ trưởng đề xuất áp dụng cơ chế "cấp phép sandbox" nhằm hỗ trợ các startup, không chỉ trong nước mà cả quốc tế, có thể thử nghiệm và triển khai các công nghệ mới một cách nhanh chóng.
Bộ trưởng yêu cầu Cục Tần số Vô tuyến điện không "luẩn quẩn" với mạng di động mà phải đẩy mạnh quản lý tần số sang các lĩnh vực khác, đặc biệt là những không gian mới nổi như vệ tinh tầm thấp, máy bay không người lái (drone). Để nâng cao hiệu quả quản lý, Bộ trưởng khuyến khích ứng dụng công nghệ số như trí tuệ nhân tạo, trong công tác giám sát tần số và xử lý nhiễu, coi đây là một xu thế toàn cầu mà Việt Nam đã làm tốt nhưng cần làm tốt hơn.
Tương tự các đơn vị khác, Cục Tần số Vô tuyến điện cũng phải tập trung xây dựng tiêu chuẩn và chất lượng cho hoạt động của mình. Đồng thời, việc "đưa người vào tổ chức quốc tế" cần được duy trì và tăng cường. Bộ trưởng yêu cầu đơn vị phải có "thiết bị công nghệ, phòng lab hiện đại" để đảm bảo năng lực quản lý vượt trội. Cuối cùng, yếu tố "minh bạch, công bố thông tin", bao gồm việc công khai những trường hợp không đạt yêu cầu hay gây nhiễu của nhà mạng, được nhấn mạnh là một công cụ quản lý nhà nước hiệu quả, thúc đẩy các đơn vị nỗ lực hơn.
VNNIC cần nằm trong top 5 thế giới.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, VNNIC cần quan tâm đến khái niệm "tài nguyên số quốc gia của Internet" và "hạ tầng số quốc gia về tài nguyên số" thay vì chỉ tập trung vào tên miền, địa chỉ mạng. Trên môi trường số có định danh số, tài nguyên metadata (siêu dữ liệu), trong khi chưa có người "tổng quản". Bộ trưởng nhấn mạnh VNNIC cần là đơn vị quản lý toàn bộ tài nguyên này, sau đó phân công cho các cơ quan liên quan.
Một chỉ đạo đặc biệt khác là đảm bảo "Internet có chủ quyền" và "Internet độc lập", đảm bảo Internet trong nước vẫn hoạt động bình thường ngay cả khi kết nối quốc tế gặp sự cố. Ngoài ra, VNNIC được yêu cầu cung cấp dịch vụ công nền tảng về tài nguyên số, như cấp tên miền .vn, id.vn, các tên miền xác định danh tính tích hợp với định danh, xác thực, mã hóa phục vụ hệ thống công; đồng hành thúc đẩy Internet thế hệ mới như IPv6+, IoT, doanh nghiệpS-over-HTTPS, mạng riêng ảo. Với mục tiêu vào nhóm dẫn đầu về chuyển đổi IPv6, Bộ trưởng đề nghị VNNIC cần nằm trong top 5 thế giới trở lên.
Cục Bưu điện Trung ương xây dựng mạng chuyên dùng Chính phủ
Cục Bưu điện Trung ương có chức năng là đảm bảo thông tin liên lạc cho lãnh đạo Đảng, Nhà nước trong công tác chỉ đạo, điều hành cơ mật, khẩn cấp. Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng định hướng Cục cần thực hiện chuyển đổi quan trọng từ vai trò "chuyển phát bảo mật" truyền thống sang mô hình một trung tâm điều hành và đảm bảo thông tin đặc biệt của Nhà nước trong môi trường số. Điều này, đòi hỏi Cục phải đổi mới toàn diện về hạ tầng, công nghệ, thể chế phối hợp và cả con người, không chỉ mang tính kỹ thuật mà còn ở tầm chiến lược quốc gia.
Bộ trưởng nhắc đến xu hướng của thế giới như chuyển từ mạng cục bộ phân tán sang hạ tầng số tích hợp toàn quốc gia, sử dụng mạng ảo hóa, mạng riêng 5G, mạng vệ tinh. Trong khi đó, Cục Bưu điện của Việt Nam vẫn phụ thuộc mạng công cộng, thiếu mạng 5G hoặc vệ tinh riêng, chưa tích hợp sâu với hạ tầng chính quyền số, còn hạn chế về năng lực công nghệ lõi, cơ chế phối hợp, mô hình điều hành an ninh mạng và nguồn nhân lực chuyên sâu.
Để hiện thực hóa tầm nhìn, Bộ trưởng đề nghị Cục ưu tiên hiện đại hóa hạ tầng thông tin bảo mật, đặc biệt là xây dựng mạng lõi độc lập. Mạng lưới này phải đảm bảo hoạt động liên tục ngay cả khi mạng công cộng gặp sự cố, với mục tiêu đạt số một về công nghệ và bảo mật. Song song, việc phát triển mạng 5G dùng riêng cho các khu vực trọng yếu cần được xem là ưu tiên hàng đầu.
Trong bối cảnh chuyển đổi số, việc ứng dụng AI và phân tích dữ liệu để cảnh báo và điều phối thông tin được đặc biệt nhấn mạnh. Công nghệ sẽ trở thành công cụ đắc lực giúp giám sát mạng lưới viễn thông, bao gồm cả mạng lưới bưu chính, một cách thông minh và hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, Cục Bưu điện Trung ương cần tích hợp các hệ thống thông tin đa nền tảng, gồm hữu tuyến, vô tuyến và vệ tinh, nhằm đảm bảo thông tin được truyền tải mọi lúc, mọi nơi, với các phương án dự phòng sẵn sàng, nhất là phục vụ cho Chính phủ số. Cục cũng xem xét xây dựng một mạng chuyên dùng 5G/6G. “Có thể là thuê lại một nhà mạng để làm mạng chuyên dụng Chính phủ để thực hiện kết nối các hạ tầng, thiết bị chuyên dùng của Chính phủ”.
Quỹ Viễn thông công ích Việt Nam: Cải cách thủ tục, mở rộng đối tượng thụ hưởng
Đối với Quỹ Viễn thông công ích Việt Nam, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đưa ra chỉ đạo mạnh mẽ nhằm cải cách toàn diện, với mục tiêu khắc phục tình trạng chậm giải ngân kéo dài và mở rộng đối tượng thụ hưởng.
Để đẩy nhanh quá trình giải ngân, Bộ trưởng yêu cầu Quỹ "cải cách thủ tục" theo hướng tinh gọn, dễ làm và tăng cường hậu kiểm. Tình trạng chậm giải ngân cần được chấm dứt, thay vào đó là cơ chế linh hoạt, cho phép triển khai nhanh chóng các dự án.
Bộ trưởng cũng nhấn mạnh việc "mở rộng đối tượng thụ hưởng" của Quỹ. Nội hàm cần mở rộng từ phổ cập dịch vụ thoại, Internet sang các dịch vụ băng rộng như 4G, 5G và đặc biệt là các dịch vụ cơ bản liên quan đến y tế, giáo dục số. Song song đó, Bộ trưởng chỉ đạo "mở rộng nguồn thu". Ngoài khoản 1% doanh thu viễn thông hiện tại, Quỹ cần nghiên cứu thu từ tiền phí phổ tần và từ nền tảng số xuyên biên giới như Netflix, Facebook. Bộ trưởng cho rằng, các nền tảng đó đang thu lợi lớn tại Việt Nam nhưng chưa đóng góp tương xứng vào công cuộc phổ cập dịch vụ số. Việc nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về vấn đề này cũng cần thiết để xây dựng cơ chế tài chính mới, bền vững hơn.
Để tăng cường hiệu quả hoạt động, Bộ trưởng yêu cầu "minh bạch hóa" mọi hoạt động của Quỹ. Các thông tin về vùng khó khăn, số tiền giải ngân hằng năm, thu chi, người hưởng lợi và hiệu quả chi tiêu cần được công bố rõ. Việc công khai dữ liệu sẽ giúp Quỹ nhận được phản hồi, phê bình từ cộng đồng để tự cải thiện, đồng thời tạo áp lực tích cực cho toàn ngành.
Quản lý viễn thông theo xu thế đổi mới và toàn diện hơn

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu kết luận tại buổi làm việc.
Trong phần kết luận, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng gói gọn sự chuyển đổi của khối Viễn thông là để hoạt động một cách toàn diện hơn, nhưng đồng thời cũng mở ra không gian mới, cách thức vận hành mới và thoát dần khỏi khái niệm "hạ tầng cứng". Các đơn vị phải chuyển từ quản lý cứng sang mềm (cứng từ dây, tổng đài, BTS, cáp quang... bây giờ chuyển sang hướng mềm). Đó là một thách thức nhưng thực sự nếu chậm sẽ lỗi thời.
Bộ trưởng nhấn mạnh lĩnh vực chuyển sang hạ tầng số là cuộc đổi mới lần hai. Không “luẩn quẩn” ở chữ hạ tầng nữa mà hãy bắt đầu nền tảng số, dịch vụ số. Có nhiều khái niệm phân chia mạng (network slicing), mạng được xác định bằng phần mềm (software-defined networking), ảo hoá chức năng mạng (network function virtualization)… có nghĩa là ngay cả khái niệm về mạng lưới cũng bắt đầu “mềm hóa”. Việc cung cấp dịch vụ, dung lượng cũng theo nghĩa là có thể lập trình được. Đây là những xu hướng lớn.
Bộ trưởng mong muốn các đơn vị trong khối có một nhận thức mới nhưng điểm quan trọng là các cơ quan quản lý đã bắt đầu dẫn dắt doanh nghiệp. Đã là Nhà nước bây giờ phải là số một. Đã là Nhà nước là phải hiện đại. Đã là Nhà nước là công nghệ phải mới nhất. Đã là Nhà nước phải chỉ dẫn, kiến tạo chứ không phải là đi theo sau nữa. Bộ Khoa học và Công nghệ sẵn sàng hỗ trợ để các đơn vị có được thiết bị, công cụ với công nghệ tốt nhất để thực hiện tầm nhìn đó.
PT