
Top 100 doanh nghiệp khoa học và công nghệ tiêu biểu sáng tạo năm 2022.
Những tồn tại hạn chế trong việc thực hiện Nghị định 13/2019/NĐ-CP
Số lượng doanh nghiệp KH&CN được cấp còn hạn chế so với tiềm năng, về cơ bản mới chỉ đáp ứng 30% mục tiêu đặt ra tại các chiến lược phát triển KH&CN; trong số đó số doanh nghiệp KH&CN hình thành từ các viện, trường hoặc chuyển đổi từ các tổ chức KH&CN công lập rất hạn chế, chiếm tỷ lệ nhỏ trong số doanh nghiệp KH&CN được cấp Giấy chứng nhận. Số lượng doanh nghiệp KH&CN được thụ hưởng chính sách ưu đãi hạn chế.
Cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp KH&CN không đầy đủ, thiếu thông tin, chưa được kiểm chứng. Mặc dù trách nhiệm báo cáo về kết quả hoạt động là một trong những nghĩa vụ được quy định của doanh nghiệp KH&CN (chế tài của việc không thực hiện báo cáo trong 03 năm là thu hồi Giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN), tuy nhiên số lượng doanh nghiệp tuân thủ chế độ báo cáo chỉ chiếm 30-40% tổng số doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, hệ thống quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp KH&CN đã hình thành từ trung ương đến địa phương (cấp tỉnh). Tuy nhiên, ngoài một số thành phố lớn, nhìn chung yêu cầu đối với hệ thống quản lý ở các tỉnh vẫn chưa đáp ứng yêu cầu do thiếu sự quan tâm của lãnh đạo, thiếu cán bộ, năng lực thực hiện chính sách chưa đáp ứng. Đây là một trong những nguyên nhân chính khiến chính sách phát triển doanh nghiệp KH&CN chưa đạt được kết quả tương xứng với tiềm năng.
Những nội dung thay đổi cơ bản của Nghị định
Dự thảo Nghị định bao gồm những thay đổi cơ bản sau đây:
Về khái niệm doanh nghiệp KH&CN
Dự thảo quy định: Doanh nghiệp KH&CN là doanh nghiệp thực hiện hoạt động nghiên cứu, phát triển, chuyển giao, đổi mới công nghệ, có năng lực hấp thụ, làm chủ công nghệ và mang lại hiệu quả về kinh tế, xã hội, môi trường (Khoản 1 Điều 39 Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (KHCN&ĐMST).
Về điều kiện chứng nhận doanh nghiệp KH&CN
Điều kiện chứng nhận doanh nghiệp KH&CN đề xuất đưa vào dự thảo Nghị định như sau: Doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp KH&CN khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau:
Điều kiện chung: a) Được thành lập và đang hoạt động theo Luật doanh nghiệp; b) Tạo ra sản phẩm KH&CN quy định tại Khoản 5 Điều 2 Nghị định này từ một trong các kết quả KH&CN được sở hữu hoặc sử dụng hợp pháp, bao gồm: Sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn được cấp văn bằng bảo hộ tại Việt Nam; Chương trình máy tính đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả; Giống vật nuôi mới, giống cây trồng mới, giống thủy sản mới, giống cây lâm nghiệp mới, tiến bộ kỹ thuật đã được công nhận; Kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, ĐMST đã được công nhận, nghiệm thu cấp Nhà nước, cấp Bộ hoặc cấp tỉnh; Hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được đăng ký theo quy định pháp luật về chuyển giao công nghệ.
Điều kiện theo quy mô doanh nghiệp:
Đối với doanh nghiệp lớn: Tổng chi cho hoạt động KHCN&ĐMST trên tổng doanh thu trung bình 3 năm gần nhất đạt tối thiểu 1%; Có bộ phận nghiên cứu và phát triển với tối thiểu 10 nhân lực có trình độ từ đại học trở lên, trong đó có ít nhất 5 nhân lực là người Việt Nam; Sản phẩm KH&CN chiếm tối thiểu 20% tổng doanh thu trung bình 3 năm gần nhất; Sản phẩm KH&CN mang lại một trong các hiệu quả như: Được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài; Được tạo ra từ công nghệ thuộc Danh mục công nghệ khuyến khích chuyển giao theo quy định pháp luật; Chất lượng tương đương hàng nhập khẩu từ các thị trường tiên tiến: châu Âu, Hoa Kỳ hoặc Nhật Bản; Đạt giải thưởng quốc gia, quốc tế về chất lượng hoặc môi trường; Tăng trưởng doanh thu từ sản phẩm KH&CN đạt bình quân tối thiểu 10%/năm trong 3 năm gần nhất.
Đối với doanh nghiệp vừa: Tổng chi cho hoạt động KHCN&ĐMST trên tổng doanh thu trung bình 3 năm gần nhất đạt tối thiểu 0,5%; Có bộ phận nghiên cứu phát triển với tối thiểu 5 nhân lực có trình độ từ đại học trở lên; Sản phẩm KH&CN chiếm tối thiểu 15% tổng doanh thu trung bình 3 năm gần nhất.
Đối với doanh nghiệp nhỏ: Tổng chi cho hoạt động KHCN&ĐMST trên tổng doanh thu trung bình 3 năm gần nhất đạt tối thiểu 0,3%; Có tối thiểu 2 nhân lực nghiên cứu và phát triển, hoặc thuê từ 2 chuyên gia trở lên từ cơ sở nghiên cứu, cơ sở đào tạo, tổ chức KH&CN; Có ít nhất 01 sản phẩm KH&CN đang được thương mại hóa.
Về các chính sách ưu đãi và hỗ trợ
Thuế thu nhập doanh nghiệp: Hiện tại doanh nghiệp KH&CN được miễn thuế tối đa không quá 04 năm và giảm 50% số thuế phải nộp tối đa không quá 09 năm tiếp theo.
Dự thảo Nghị định đã bổ sung ưu đãi về thuế suất 10% căn cứ theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2025; đề xuất mức 200% chi phí được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp theo Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị. Ngoài ra, dự thảo Nghị định cũng đề xuất bổ sung quy định về ưu đãi đối với sản phẩm, dịch vụ mới của doanh nghiệp được hưởng trọn vẹn thời gian ưu đãi khi được bổ sung vào Giấy chứng nhận nhằm khuyến khích các doanh nghiệp không ngừng nghiên cứu KH&CN, tạo ra công nghệ mới, sản phẩm mới.
Thuế thu nhập cá nhân: Dự thảo Nghị định đề xuất bổ sung chính sách miễn thuế thu nhập cá nhân cho các chuyên gia, nhà khoa học, nhân lực tham gia nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp KH&CN theo quy định của Nghị quyết 193/2025/QH15 và Điều 71 Luật KH,CN&ĐMST.
Miễn, giảm tiền thuê đất: Dự thảo Nghị định bổ sung quy định đất sử dụng cho mục đích nghiên cứu khoa học được miễn tiền thuê đất cho cả thời hạn thuê căn cứ quy định tại Điều 71 Luật KH,CN&ĐMST. Đối với đất sản xuất, kinh doanh sản phẩm KH&CN: theo quy định của Luật đầu tư và Nghị định số 103/2024/NĐ-CP.
Ưu đãi đấu thầu: Doanh nghiệp KH&CN là nhà thầu được hưởng các ưu đãi trong lựa chọn nhà thầu theo quy định tại Điều 10 của Luật đấu thầu. Đây là chính sách mới được bổ sung theo Luật đấu thầu và Nghị định 24/2024/NĐ-CP và Dự thảo Luật KHCN&ĐMST.
Ngoài ra, Dự thảo Nghị định đã bổ sung quy định về thủ tục đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN không sử dụng ngân sách nhà nước. Cụ thể:
Trước đây, thủ tục đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN không sử dụng ngân sách nhà nước được quy định tại Thông tư số 02/2015/TT-BKHCN hướng dẫn quy định tại Khoản 2 Điều 37 Luật KH&CN 2013. Giấy xác nhận kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN không sử dụng ngân sách nhà nước là một trong những văn bản công nhận kết quả KH&CN, được sử dụng để chứng nhận doanh nghiệp KH&CN. Tuy nhiên, Luật KHCN&ĐMST 2025 không có quy định về việc hỗ trợ tổ chức, cá nhân đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN không sử dụng ngân sách nhà nước. Vì vậy, để đảm bảo hiệu lực của thủ tục, tiếp tục phục vụ nhu cầu của tổ chức, cá nhân, dự thảo Nghị định đã bổ sung Chương IV về đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN không sử dụng ngân sách nhà nước.
Việc đưa nội dung này vào Nghị định sẽ nâng tầm hiệu lực pháp lý, bảo đảm sự nhất quán và thống nhất trong hệ thống pháp luật, phù hợp với yêu cầu của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trong bối cảnh đổi mới mô hình tăng trưởng, việc tăng chi tiêu R&D từ khu vực tư nhân là mục tiêu trung tâm. Việc quy định cơ chế công nhận kết quả KH&CN không dùng ngân sách nhà nước sẽ tạo động lực cho doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, phát triển sản phẩm mới. Đồng thời, đây cũng là chính sách thúc đẩy thương mại hóa công nghệ, tăng tỷ trọng sản phẩm KH&CN trong doanh thu doanh nghiệp.
CT