Việt Nam trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay
Phát biểu khai mạc Phiên toàn thể, Trưởng ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh nhấn mạnh để đạt được mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao, nhiệm vụ cấp thiết có tính then chốt, nhất quán và lâu dài là phải xây dựng nền kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Trong hai năm qua, nền kinh tế Việt Nam phải đối diện với hàng loạt những khó khăn chưa có tiền lệ do đại dịch Covid-19 gây nên. Tăng trưởng kinh tế dưới 3%, thấp nhất trong 30 năm trở lại đây; hàng triệu người lao động bị mất việc làm; hàng nghìn doanh nghiệp phải tạm dừng sản xuất để chống dịch; ngành du lịch, vận tải, nhà hàng khách sạn và nhiều ngành khác bị ảnh hưởng nghiêm trọng; thị trường vốn và thị trường bất động sản có những biến động bất thường; nợ xấu trong hệ thống ngân hàng có nguy cơ tăng trở lại.
Đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành quyết liệt, đồng bộ và hiệu quả Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cùng với sự vào cuộc của toàn hệ thống chính trị, sự đồng tình và ủng hộ của người dân và doanh nghiệp, chúng ta đã chuyển sang trạng thái “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”. Kết quả cho thấy, Việt Nam đã kiểm soát tốt được dịch bệnh, phục hồi nhanh các hoạt động sản xuất kinh doanh, ổn định việc làm, thu nhập cho người lao động, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội.
Tuy nhiên, tác động của đại dịch vừa qua cùng với sự xuất hiện nhiều biến cố mới thuộc về bối cảnh quốc tế, điển hình là xung đột Nga - Ukraine đã và đang đặt ra yêu cầu Việt Nam cần đẩy nhanh hơn, quyết liệt hơn, thực chất và hiệu quả hơn trong việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả.
Tại Phiên toàn thể, các đại biểu đã thảo luận, trao đổi, chia sẻ quan điểm để làm rõ các nội hàm về kinh tế độc lập, tự chủ của Việt Nam trong bối cảnh và điều kiện mới, trong đó tập trung vào các nội dung: kinh tế toàn cầu và những xu hướng lớn về hợp tác kinh tế quốc tế hiện nay; Việt Nam trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay - cơ hội và thách thức; đào tạo nhân lực công nghệ số để tạo mũi đột phá về khoa học và công nghệ (KH&CN); quản trị rủi ro quốc gia trong bối cảnh mới.
Đề cao vai trò của đổi mới công nghệ, chuyển đổi số và đa dạng hóa chuỗi cung ứng
Trong khuôn khổ của Diễn đàn, 3 hội thảo chuyên đề đã được tổ chức song song, tập trung vào các chủ đề: "Phát triển chuỗi cung ứng lao động ổn định sau đại dịch Covid-19", "Phát triển thị trường vốn và thị trường bất động sản", "Đổi mới công nghệ, chuyển đổi số và đa dạng hóa chuỗi cung ứng".
Hội thảo "Đổi mới công nghệ, chuyển đổi số và đa dạng hóa chuỗi cung ứng"
Tại Hội thảo “Đổi mới công nghệ, chuyển đổi số và đa dạng hóa chuỗi cung ứng", Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Đức Hiển cho biết: Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách về đổi mới công nghệ, chuyển đổi số và đa dạng hóa chuỗi cung ứng, điển hình như Nghị quyết 20-NQ/TW, Kết luận 50 của Ban Chấp hành Trung ương về phát triển KH&CN; Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), trong đó nhấn mạnh yêu cầu cấp bách đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số quốc gia để thích ứng với tình hình mới và tận dụng cơ hội mà cuộc CMCN 4.0 mang lại. Ngoài ra, Đảng cũng đã có những chỉ đạo về đa dạng hóa chuỗi cung ứng như Kết luận số 77-KL/TW ngày 5/6/2020 của Bộ Chính trị về chủ trương khắc phục tác động của đại dịch Covid-19 để phục hồi và phát triển nền kinh tế đất nước.
Trong bối cảnh nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới, hoạt động đổi mới công nghệ, chuyển đổi số và đa dạng hóa chuỗi cung ứng của Việt Nam cũng đã có những chuyển biến tích cực. Về đổi mới công nghệ, năm 2020, cơ quan chức năng đã cấp 4.319 bằng độc quyền sáng chế; 18.197 công bố quốc tế; tỷ lệ chi cho nghiên cứu triển khai khu vực ngoài nhà nước tăng lên đạt 40,07%, khu vực FDI 12,87%, khu vực Nhà nước 47,05%; Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia đã huy động được gần 800 tỷ đồng từ doanh nghiệp cho các dự án đang thực hiện; Chương trình Đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2030 đã được Thủ tướng phê duyệt năm 2021 với mục tiêu số doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ tăng trung bình 15-20%/năm.
Về chuyển đổi số, tính đến hết quý I năm 2022, đã có 22/22 bộ, ngành và 63/63 địa phương đã thành lập ban chỉ đạo; 55/63 địa phương đã ban hành nghị quyết/chỉ thị/văn bản của tỉnh ủy/thành ủy về chuyển đổi số; 59/63 địa phương và 19/22 bộ, ngành ban hành chương trình/kế hoạch/đề án về chuyển đổi số giai đoạn 05 năm. Các ngành tài chính - ngân hàng, y tế, giáo dục, nông nghiệp, năng lượng, giao thông vận tải… đã có những kết quả tích cực trong hoạt động chuyển đổi số và đưa các hoạt động thường xuyên của ngành lĩnh vực lên môi trường số.
Về đa dạng chuỗi cung ứng, Việt Nam đã tham gia và ký kết 17 hiệp định FTAs với các đối tác quan trọng hàng đầu trên thế giới, trong đó có nhiều hiệp định thương mại thế hệ mới như CPTPP, RCEP, EVFTA. Một số doanh nghiệp Việt Nam cũng đang ngày càng tham gia có hiệu quả hơn vào các chuỗi cung ứng, sản xuất khu vực, toàn cầu và liên tục mở rộng thị trường đầu ra, đầu vào cho các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam.
Tuy nhiên, đánh giá khách quan cho thấy, đổi mới công nghệ, chuyển đổi số và đa dạng hóa chuỗi cung ứng của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Kết quả phân tích đầu vào - đầu ra (I-O) cho thấy, nhóm ngành hoạt động chuyên môn KH&CN có mức lan tỏa và độ nhậy thấp hơn mức bình quân chung khá nhiều. Bên cạnh đó, hiệu quả đổi mới công nghệ chỉ đóng góp khiêm tốn ở mức 28,44% trong TFP giai đoạn 2016-2018; tỷ lệ cấp bằng độc quyền sáng chế cho người Việt Nam rất thấp, năm cao nhất (2018) chỉ đạt 9,2% tổng số bằng được cấp tại Việt Nam. Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa xây dựng được hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia với sự đồng bộ của viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp và hệ thống quản lý của Nhà nước. Chuyển đổi số trong các ngành sản xuất còn chậm; còn thiếu các cơ chế, chính chính sách hỗ trợ hiệu quả về chuyển đổi số, cơ chế đột phá đa dạng hóa chuỗi cung ứng để doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ, ưu đãi đối với sản phẩm tạo ra từ đổi mới công nghệ, chuyển đổi số chưa nhiều. Nền kinh tế có độ mở lớn, hội nhập cao nhưng lại chỉ tập trung vào một số ít thị trường dẫn đến thiếu bền vững.
Tại phần thảo luận của hội thảo, các đại biểu tập trung bàn luận và trao đổi những nội dung: kinh nghiệm quốc tế về đổi mới công nghệ, chuyển đổi số, đa dạng hóa chuỗi cung ứng; chủ trương, cơ chế, chính sách thúc đẩy đổi mới công nghệ, chuyển đổi số, đa dạng chuỗi cung ứng đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; nâng cao vai trò của Nhà nước và doanh nghiệp trong chuyển đổi số, đổi mới công nghệ, đa dạng hóa chuỗi cung ứng...
Phát biểu tại Hội thảo, Ông Nguyễn Nam Hải, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch Tài chính, Bộ KH&CN cho biết, tỷ lệ đầu tư cho KH&CN trên GDP của Việt Nam còn thấp so với nhiều quốc gia. Năng lực nghiên cứu, ứng dụng của các viện nghiên cứu, trường đại học còn khiêm tốn, thiếu gắn kết với doanh nghiệp. Năng lực hấp thụ công nghệ, đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp trong nước còn hạn chế. Cơ chế, chính sách, hệ thống các tổ chức trung gian chưa tạo điều kiện thuận lợi cho sản phẩm KH&CN được trao đổi, mua bán trên thị trường... Theo ông Hải, trong thời gian tới, cần thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng thành tựu của CMCN 4.0 đặc biệt là chuyển đổi số vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; rà soát, sắp xếp lại hệ thống tổ chức KH&CN; có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài...
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu tại Diễn đàn.
Phát biểu kết luận Diễn đàn, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cho rằng Diễn đàn đã thống nhất cao và khẳng định chủ trương đúng đắn, nhất quán, xuyên suốt và hiệu quả của Đảng, Nhà nước ta là kiên định đường lối đổi mới, tập trung xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, thực chất, hiệu quả.
Về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, Thủ tướng chỉ rõ trước hết phải tạo môi trường hoà bình, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, ổn định môi trường pháp lý, tạo nền tảng và điều kiện thuận lợi cho phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng. Bên cạnh đó, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đồng bộ, hiện đại, hội nhập, phù hợp với điều kiện Việt Nam và các cam kết quốc tế. Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Tập trung cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, thúc đẩy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số, đa dạng hóa chuỗi cung ứng. Huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, phát huy vai trò quan trọng của doanh nghiệp trong và ngoài nước; tạo môi trường và điều kiện cho doanh nghiệp phát triển; phát triển cộng đồng doanh nghiệp lớn mạnh. Phát triển nguồn nhân lực và quản trị quốc gia hiện đại, với nguồn nhân lực chất lượng cao, nâng cao hệ thống quản trị quốc gia, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, phòng chống tham nhũng, tiêu cực...
Hà Văn Vương
Trường Đại học Công nghệ thông tin và truyền thông - Đại học Thái Nguyên