Cây trồng BĐG là một thành tựu của khoa học hiện đại
Sinh vật BĐG (cây trồng, vật nuôi, vi sinh vật) là các sinh vật được cải biến di truyền bằng kỹ thuật của CNSH hiện đại. Trong đó, một hoặc một nhóm các gen chức năng được chủ động biến nạp vào hệ gen của sinh vật nhằm tạo ra một số đặc tính mới của sinh vật theo mong muốn của con người. Công nghệ chuyển gen là một giải pháp mới trong chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi, vi sinh vật phục vụ sản xuất và đời sống của con người.
Cây trồng BĐG là một thành tựu khoa học hiện đại của nhân loại đã được nghiên cứu thành công từ những năm 80 của thế kỷ XX. Đến năm 1996, cây trồng BĐG chính thức được thương mại hóa trên thế giới và việc ứng dụng cây trồng BĐG đã phát triển với tốc độ nhanh chưa từng có trong lịch sử ngành nông nghiệp toàn cầu. Theo thống kê của tổ chức ISAAA, năm 2013, hơn 18 triệu nông dân tại 27 quốc gia đã canh tác các loại cây trồng BĐG trên tổng diễn tích khoảng 170 triệu ha. Bên cạnh đó, cây trồng BĐG đang được trồng, nhập khẩu và sử dụng trong nghiên cứu thử nghiệm đồng ruộng tại 70 quốc gia trên thế giới. Cây trồng BĐG cũng chứng minh được vai trò quan trọng trong việc nâng cao thu nhập cho người nông dân, tiết kiệm thời gian và công sức lao động trên đồng ruộng và từ đó giúp họ cải thiện cuộc sống, đặc biệt đối với nông dân ở các nước đang phát triển.
Theo báo cáo của viện PG Economics, mức tăng trưởng về năng suất và lợi nhuận thu được từ cây trồng BĐG của nông dân ở các nước đang phát triển đang cao hơn so với các nước phát triển. Năm 2012, trung bình mỗi 1 USD người nông dân đầu tư vào hạt giống BĐG, lợi nhuận thu được 4,37 USD cho nông dân các nước đang phát triển trong khi con số này 3,04 USD cho nông dân các nước phát triển. Diện tích trồng cây CNSH (CNSH) đã tăng lên 175,2 triệu ha tại 27 nước. Tổng diện tích lũy kế toàn cầu đã đạt 1,5 tỷ cây. Trong đó, châu Âu có ít nhất 5 nước đã trồng và thương mại hóa cây ngô BĐG. Đến nay, đã có 500 nhóm nghiên cứu độc lập an toàn sinh học của cây trồng BĐG, 610 bài báo đã được công bố. Tuy nhiên, không có bằng chứng khoa học là cây trồng BĐG có rủi ro cao hơn đối với môi trường, đa dạng sinh học và sức khỏe con người, vật nuôi.
Việt Nam và mối quan tâm đối với cây trồng BĐG
Tại Việt Nam, từ đầu năm 2010, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) đã cấp giấy phép khảo nghiệm diện hẹp, tiếp theo khảo nghiệm diện rộng cho 5 sự kiện ngô BĐG. Cuối tháng 8/2014, Bộ NN&PTNT đã chính thức có các Quyết định về việc công nhận các sự kiện ngô BĐG đủ điều kiện sử dụng làm thức ăn chăn nuôi tại Việt Nam. Tiếp sau đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đã có các Quyết định phê duyệt và cấp giấy chứng nhận an toàn sinh học cho 3 sự kiện ngô BĐG. Đây là một bước phát triển pháp lý quan trọng và cụ thể nhằm tiến tới mục tiêu thương mại hóa và chính thức ứng dụng vào sản xuất đại trà cây ngô BĐG ở nước ta đến năm 2015. Tuy nhiên, các thông tin về cây trồng BĐG đối với người nông dân, cũng như các cấp lãnh đạo Hội Nông dân địa phương ở Việt Nam còn rất hạn chế. Hầu hết bà con nông dân vẫn chưa nắm rõ về cây trồng BĐG, tính an toàn và tác động loại cây trồng này trong sản xuất nông nghiệp.
Trong số cây trồng BĐG hiện đang được trồng ở nước ta, phải kể đến cây ngô. Thực tế, việc ứng dụng cây ngô BĐG vào nước ta có ý nghĩa rất quan trọng nhằm giảm bớt sự lệ thuộc phải nhập khẩu nguyên liệu dùng để sản xuất thức ăn chăn nuôi. Ở nước ta, sản xuất ngô vẫn chiếm tỷ trọng khá khiếm tốn do năng suất bình quân còn thấp hơn nhiều nước trên thế giới, chất lượng không đồng đều, nên tính cạnh tranh chưa cao. Chính vì thế, theo định hướng tái cơ cấu ngành trồng trọt, Bộ NN&PTNT đã đặt mục tiêu mở rộng diện tích ngô để đạt 8,5 triệu tấn nhằm phục vụ chế biến thức ăn chăn nuôi công nghiệp, giảm nhập khẩu trong thời gian tới. Theo thống kê của Bộ NN&PTNT, hiện nước ta đang phụ thuộc tới 70% nguyên liệu dùng để sản xuất thức ăn chăn nuôi từ nước ngoài. Chỉ tính riêng trong 11 tháng đã qua của năm 2014, Việt Nam đã phải chi ra 3,03 tỷ USD để nhập khẩu thức ăn chăn nuôi, trong đó riêng nhập khẩu ngô đã chiếm 1,05 tỷ USD với khối lượng lên tới 4,07 triệu tấn. Chính vì thế, với ưu điểm có khả năng kháng sâu bệnh, thuốc trừ cỏ, cây ngô BĐG là một trong những giải pháp thích hợp nhằm gia tăng năng suất cây trồng, tăng thu nhập cho nông dân, đặc biệt là tiến tới giảm lệ thuộc vào nguồn nguyên liệu phải nhập khẩu từ nước ngoài.
Quyết tâm ứng dụng cây trồng BĐG đã được các cơ quan quản lý thể hiện rất rõ ràng trong các văn bản, đầu tiên là Chỉ thị số 50-CT/TW của Ban Bí thư TW Đảng, ngày 4/3/2005; tiếp đến là Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 4/3/2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng CNSH phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại đất nước (Quyết định số 188/2005/QĐ-TTg ngày 22/7/2005); Chương trình trọng điểm phát triển và ứng dụng CNSH trong lĩnh vực NN&PTNT đến năm 2020 (Quyết định số 11/2006/QĐ-TTg ngày 12/01/2006); Kế hoạch tổng thể phát triển và ứng dụng CNSH ở Việt Nam đến năm 2020 (Quyết định số 14/2008/QĐ-TTg ngày 22/01/2008).
Về mặt Tổ chức quản lý nhà nước cũng đã được phân công và quy định rõ nhiệm vụ của từng cơ quan liên quan đến ứng dụng cây trồng BĐG gồm: Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ NN&PTNT, Bộ KH&CN... “Có thể nói, đến 2014 chúng ta đã có một hệ thống văn bản luật, nghị định rất đầy đủ, song song với đó, các bộ ngành cũng đã xây dựng được hệ thống tổ chức, quản lý sinh vật BĐG”.
Tranh luận về ảnh hưởng của cây chuyển gen đối với môi trường
Những cuộc tranh luận xung quanh ảnh hưởng của cây chuyển gen đối với môi trường ngày càng phức tạp, căng thẳng và rất nhạy cảm. Vấn đề này càng phức tạp hơn khi có các nghiên cứu mới được công bố. Vậy cây chuyển gen có an toàn với môi trường hay không? Thực trạng môi trường hiện nay ra sao? Dân số gia tăng, Trái đất nóng lên, đưa đa dạng sinh học mất dần đang ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến môi trường. Đến năm 2020, dân số trên hành tinh sẽ lên tới 8 tỷ người. Điều này có nghĩa là trong vòng 20 năm tới, dân số ước tính sẽ tăng lên 2 tỷ. Nuôi sống số người này đồng nghĩa với những thay đổi hàng loạt trong sản xuất, phân phối và bình ổn lương thực. Điều không may là dân số và đất canh tác lại phân bố không đều. Chẳng hạn, Trung Quốc chỉ có 7% đất sản xuất nhưng lại chiếm tới 20-25% dân số của thế giới. Tình trạng này lại càng nghiêm trọng hơn vì số lượng nông dân ngày càng giảm, sự thiếu hụt đất canh tác do xói mòn, thiếu hụt các nguồn lợi tái sử dụng và nước. Sự phá huỷ rừng và môi trường tự nhiên sử dụng ngày càng nhiều than đá dẫn tới sự gia tăng không ngừng lượng CO2 làm Trái đất nóng lên. Người ta dự đoán rằng, nhiệt độ trung bình của Trái đất sẽ tăng 2-3oC tính đến năm 2100, đồng thời với sự biến động của thời tiết. Sự thay đổi khí hậu có thể làm thay đổi căn bản chế độ mưa do đó gây nên sự di cư của con người và những biến đổi trong các hoạt động nông nghiệp.
Cây chuyển gen được đánh giá như thế nào đối với an toàn môi trường? Các cây chuyển gen được đánh giá cẩn thận về ảnh hưởng tới môi trường trước khi đưa ra thị trường. Chúng được các nhà chức tránh đánh giá tuân theo các quy tắc do các chuyên gia môi trường trên khắp thế giới đưa ra. (Hội đồng nghiên cứu quốc gia Mỹ năm 1989; Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế năm 1992; Chính phủ Canada năm 1994). Những người đánh giá ảnh hưởng của cây trồng BĐG bao gồm những người tạo ra chúng, các cơ quan kiểm soát và các nhà khoa học. Hầu hết các quốc gia sử dụng các quy trình đánh giá tương tự để xét xem sự tương tác giữa cây chuyển gen và môi trường. Bao gồm những thông tin về vai trò của gen được đưa vào, ảnh hưởng của nó đối với cây nhận gen, đồng thời cả những ảnh hưởng không mong muốn như: ảnh hưởng lên các sinh vật không phải là sinh vật cần diệt trong môi trường đó. Cây chuyển gen có tồn tại trong môi trường lâu hơn bình thường hoặc xâm chiếm những nơi cư ngụ mới không? Khả năng gen phát tán ngoài ý muốn từ cây chuyển gen sang loài khác và những hậu quả có thể. Cây chuyển gen, những rủi ro có thể. Khả năng xảy ra lai chéo xa của gen được chuyển vào với các cây cỏ họ hàng, cũng như khả năng tạo ra những loại cỏ mới. Lai chéo xa là lai không mong muốn giữa cây trồng với một cây có quan hệ họ hàng.
Lo ngại chính về ảnh hưởng của cây chuyển gen đối với môi trường là khả năng tạo ra loài cỏ mới thông qua lai chéo xa với các cây họ hàng hoang dại hoặc đơn giản hơn là tồn tại lâu trong tự nhiên. Khả năng trên có thể xảy ra, được đánh giá trước quá trình chuyển gen và được kiểm soát sau khi cây được đưa ra trồng. Một nghiên cứu bắt đầu từ năm 1990 kéo dài 10 năm chứng minh rằng, thực vật chuyển gen (như cải dầu, khoai tây, ngô, củ cải đường) không làm tăng nguy cơ xâm chiếm hay tồn tại lâu dài trong môi trường tự nhiên so với các cây không chuyển gen tương ứng. Các tính trạng như chống chịu thuốc diệt cỏ, kháng côn trùng đồng thời được điều tra so với những cây không chuyển gen tương ứng (Crawley và cộng sự, 2001). Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu phát biểu rằng “những kết quả này không có nghĩa là sự thay đổi di truyền không thể làm gia tăng tính hoang dại hay khả năng phát tán của cây trồng mà chúng chỉ ra rằng những cây trồng năng suất khó có thể tồn tại lâu dài mà không được canh tác”. Do đó, việc đánh giá cây chuyển gen theo từng trường hợp như đã quy định là rất quan trọng. Ảnh hưởng trực tiếp lên các sính vật không phải là sinh vật cần diệt.
Tháng 5/1999, xuất hiện báo cáo rằng hạt phấn từ cây ngô Bt có ảnh hưởng bất lợi đối với ấu trùng bướm Monarch. Báo cáo này gây ra những lo lắng về nguy cơ tiềm tàng đối với bướm Monarch và có thể đối với những sinh vật không phải là sinh vật cần diệt khác. Một số nhà khoa học lại cho là cần phải thận trọng trong việc giải thích những kết quả nghiên cứu vì nghiên cứu phản ánh một tình huống khác với thực trạng môi trường. Tác giả chỉ ra rằng “nghiên cứu của chúng tôi được tiến hành trong phòng thí nghiệm và là khởi đầu của những vấn đề quan trọng nhưng chỉ dựa vào nó không đủ cơ sở để rút ra kết luận về nguy cơ đối với quần thể bướm Monarch trên cánh đồng”.
Năm 2001, một nghiên cứu của PNAS đã kết luận rằng, ảnh hưởng của phấn ngô Bt lên số lượng của loài bướm Monarch là không đáng kể. Một báo cáo của Uỷ ban bảo vệ môi trường Mỹ chỉ ra: “các số liệu đã chứng minh rằng protein trong cây trồng không có ảnh hưởng bất lợi đối với sinh vật không phải là sinh vật cần diệt”. Hơn nữa, trong một nhiên cứu, các nhà khoa học bắc Mỹ đã kết luận rằng, trong hầu hết các giống lai vì mục đích thương mại, độ biểu lộ Bt trong phấn hoa là rất thấp. Thêm vào đó, một nghiên cứu của trường Đại học lllinnois chỉ ra rằng, bướm Monarch không bị gây hại bởi hạt phấn Bt trong điều kiện đồng ruộng thực sự. Phát triển tính kháng của côn trùng. Một lo ngại khác về thực vật Bt là sự phát triển tính kháng của côn trùng đối với Bt. Chính phủ, Bộ ngành và các nhà khoa học đã đưa ra các kế hoạch quản lý tính kháng của côn trùng để giải quyết vấn đề này. Những kế hoạch này bao gồm một quy định rằng mọi cánh đồng trồng cây chuyển gen kháng côn trùng phải có cả cây không chuyển gen để côn trùng phát triển mà không bị chọn lọc đối với những giống kháng sâu.
*
* *
Tóm lại, những mối quan tâm tới sinh thái và môi trường xuất phát từ cây chuyển gen được đánh giá trước khi thương mại hoá chúng. Đồng thời, cần có sự kiểm soát và các hệ thống nông nghiệp tốt để phát hiện và giảm thiểu những mối nguy hại có thể xảy ra. Chúng ta cần so sánh phương pháp chuyển gen, phương pháp truyền thống và các phương pháp nông nghiệp khác để làm sáng tỏ những mối rủi ro tương đối cũng như những lợi ích của việc áp dụng cây chuyển gen. Mặc dù có sai số, nhưng có một điều rõ ràng rằng, để bảo vệ môi trường của chúng ta, lương thực đáp ứng nhu cầu trong tương lai chỉ dựa trên quỹ đất hiện có. Do đó, điều quan trọng là chúng ta phải sử dụng tất cả mọi biện pháp có thể để giải quyết vấn đề cấp thiết này.
GS.TS Nguyễn Lân Dũng