Nhật Bản - đối tác kinh tế quan trọng của Việt Nam
Trong khuôn khổ phạm vi nghiên cứu, ở tầm vĩ mô, đề tài KX.01.13/16-20 đã khu trú vào 3 lĩnh vực trọng tâm của chính sách kết nối kinh tế là: (i) chính sách ODA; (ii) thương mại và (iii) đầu tư. Ở tầm vi mô, đề tài tập trung vào phân tích kết nối năng lực sản xuất của: (i) địa phương và (ii) các doanh nghiệp trong một số lĩnh vực 2 bên cam kết.
Chính sách vốn ODA của Nhật Bản đối với Việt Nam
Các nhà nghiên cứu của đề tài KX.01.13/16-20 cho biết, Nhật Bản bắt đầu cung cấp ODA cho Việt Nam từ năm 1975 và tiếp tục duy trì cung cấp vốn ODA cho Việt Nam cho đến nay. Mặc dù có sự biến động, nhưng so với các quốc gia có ODA cho Việt Nam khác, Nhật Bản là quốc gia có ODA lớn nhất cho Việt Nam. Từ năm 2000 đến năm 2016, Nhật Bản là nhà tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam với tổng vốn tài trợ 15,05 tỷ USD. So với các nước trong khu vực ASEAN, ODA của Nhật Bản cho Việt Nam duy trì ở mức cao, đứng đầu trong giai đoạn 2012-2014. Từ năm 2015, ODA của Nhật Bản cho Việt Nam có xu hướng giảm.
Các lĩnh vực ưu tiên chính của ODA Nhật Bản tại Việt Nam tập trung vào thúc đẩy tăng trưởng bền vững. ODA của Nhật Bản gồm 3 thành phần chính là: (i) viện trợ cho vay/cho vay ưu đãi, (ii) viện trợ không hoàn lại và (iii) hợp tác kỹ thuật. Trong đó, nguồn vốn cho vay với lãi suất thấp đóng vai trò quan trọng trong việc tích lũy tài sản quốc gia và tạo ra tăng trưởng kinh tế. Đây cũng là hình thức ODA chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng vốn ODA của Nhật Bản cho Việt Nam (chiếm hơn 90%); trong khi tỷ trọng vốn vay không hoàn lại chỉ khoảng 1-2% và hỗ trợ kỹ thuật chiếm khoảng 3-6%.
Theo đánh giá của nhóm nghiên cứu, ODA Nhật Bản với Việt Nam có vai trò quan trọng thể hiện trên các khía cạnh: (i) cải thiện và nâng cấp môi trường kinh doanh tại Việt Nam, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; (ii) cải thiện môi trường xã hội; (iii) thúc đẩy phát triển nông - lâm - ngư nghiệp, góp phần xóa đói giảm nghèo và (iv) góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản
Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản không ngừng phát triển trên nền tảng mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp giữa hai nước. Hiện nay, Nhật Bản không chỉ là đối tác quan trọng mà còn là bạn hàng lớn thứ hai của Việt Nam. Từ khi Hiệp định đối tác toàn diện Nhật Bản - ASEAN (AJCP) có hiệu lực và đặc biệt là sau khi hai bên đã ký kết Hiệp định đối tác kinh tế song phương Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA), mối quan hệ hợp tác Việt - Nhật Bản như được tiếp thêm sung lực mới, thúc đẩy thương mại song phương hai nước phát triển mạnh mẽ hơn. Kim ngạch thương mại hai chiều liên tục tăng và Nhật Bản là một trong những thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam. Giai đoạn 2011-2014, Việt Nam luôn có thặng dư cán cân thương mại trong trao đổi hàng hóa với Nhật Bản. Tuy nhiên, trong 4 năm trở lại đây (2015-2018), cán cân thương mại hàng hóa lại đảo chiều sang trạng thái thâm hụt.
Phân tích về thực trạng và đặc điểm của quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản cũng như những vấn đề đặt ra trong quan hệ giữa hai nước hiện nay và trong những năm sắp tới, nhóm nghiên cứu của đề tài khẳng định, quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản sẽ tiếp tục phát triển mạnh hơn nữa trong những năm sắp tới bởi những lý do chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản trong gần hai thập kỷ qua luôn nằm trong xu hướng phát triển đi lên với mức tăng của tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu bình quân hàng năm đạt 20-30%.
Thứ hai, quan hệ Việt Nam - Nhật Bản nói chung đã và đang được phát triển lên một tầm cao mới với việc xây dựng quan hệ “đối tác chiến lược”. Nhiều văn bản và hiệp định thương mại và đối tác kinh tế đã được ký kết.
Thứ ba, với việc Hiệp định Thương mại tự do song phương Nhật Bản - ASEAN được phê chuẩn, trong đó Việt Nam là nước nằm trong diện được ưu tiên trong lộ trình giảm thuế quan đối với hàng hoá nhập khẩu từ Nhật Bản và được hưởng lợi từ việc Nhật Bản sẽ giảm hoặc miễn thuế quan đối với các mặt hàng nhập khẩu từ ASEAN (trong đó có Việt Nam), quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản sẽ phát triển mạnh hơn nữa trong những năm sắp tới.
Thứ tư, cùng với việc thực hiện những cam kết trong khuôn khổ của WTO, không chỉ Nhật Bản sẽ dành cho Việt Nam những ưu đãi theo quy chế của WTO như quy chế tối huệ quốc (MFN) và quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) giữa một nước đã phát triển với một nước đang phát triển trong quan hệ mậu dịch song phương, mà Việt Nam cũng sẽ phải thực hiện những cam kết trong việc mở cửa thị trường, minh bạch hoá các thủ tục pháp lý.
Thứ năm, thị trường Nhật Bản với hơn 120 triệu dân được coi là một thị trường có tiềm năng lớn ở Đông Á, đặc biệt là đối với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như dầu thô, hải sản, hàng dệt may, đồ gỗ.
Thứ sáu, trong những năm gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam đã rất nỗ lực trong việc thâm nhập thị trường Nhật Bản bằng các biện pháp như: thay đổi cơ cấu và chất lượng hàng xuất khẩu, tìm hiểu thị trường, xúc tiến thương mại.
Quan hệ đầu tư Việt Nam - Nhật Bản
Từ kết quả nghiên cứu của đề tài, nhóm nghiên cứu cho rằng, đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam được chia làm 3 giai đoạn: tăng nhanh (1989-1995); giảm đầu tư (1996-2000) và làn sóng đầu tư thứ hai (sau năm 2001). Sự biến động của FDI từ Nhật Bản vào Việt Nam giai đoạn này có nhiều nét tương đồng với Thái Lan và Indonesia. Mặc dù, số lượng vốn FDI tiếp tục đổ vào Việt Nam nhưng xét về tổng thể, tỷ trọng FDI của Nhật Bản vào Việt Nam chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng đầu tư của Nhật Bản ra nước ngoài nói chung và khu vực châu Á nói riêng. Tính riêng cho giai đoạn 2008-2018, tỷ lệ FDI Nhật Bản vào Việt Nam trong tổng đầu tư của Nhật Bản tại châu Á giảm nhẹ từ 5 xuống 4%. Tỷ lệ đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam so với Indonesia và Thái Lan giảm từ 150% và 54% xuống còn 57% và 28%. Tỷ lệ đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam so với Trung Quốc duy trì ở mức 17%.
Tính đến hết 20/4/2019, Nhật Bản là quốc gia có số dự án và số vốn đăng ký lớn thứ 2 (sau Hàn Quốc) vào Việt Nam. Tổng số dự án còn hiệu lực là 4.118 dự án với số vốn đầu tư lên đến 57.312,58 triệu USD (số dự án và tổng vốn đầu tư của Hàn Quốc là 7.745 và 64.306,85 triệu USD). Tuy nhiên, quy mô vốn đầu tư/dự án của Hàn Quốc và Nhật Bản không cao, đều dưới 20 triệu USD, Hàn Quốc là khoảng 8,3 triệu USD/dự án và Nhật Bản là 13,9 triệu USD/dự án.
Đánh giá về FDI của Nhật Bản đối với Việt Nam, nhóm nghiên cứu của đề tài KX.01.13/16-20 cho rằng, về tổng thể, nó đã tạo ra hiệu ứng tích cực đối với Việt Nam bao gồm tạo việc làm và thu nhập, chuyển giao công nghệ, tham gia vào mạng lưới sản xuất quốc tế, đóng góp vào doanh thu thuế và giảm bớt khó khăn tài chính. Ngoài ra, FDI Nhật Bản vào Việt Nam đóng vai trò quan trọng đến việc hình thành và phát triển các khu công nghiệp (KCN).
Hợp tác giữa các địa phương của Việt Nam và Nhật Bản
Sự trao đổi và hợp tác giữa các địa phương của Nhật Bản và Việt Nam là một xu hướng mới từ năm 2007. Cho đến nay, 5 thành phố trực thuộc Trung ương, 11 tỉnh và 3 thành phố trực thuộc tỉnh của Việt Nam cùng 16 quận, 12 thành phố và 1 thị trấn của Nhật Bản đã trao đổi tổng cộng 37 bản ghi nhớ hợp tác. Việc mở rộng trao đổi và hợp tác ở cấp địa phương có ý nghĩa, vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kết nối kinh tế giữa Việt Nam và Nhật Bản trên bình diện quốc gia nói chung và địa phương nói riêng thông qua việc tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai nước, góp phần khôi phục nền kinh tế địa phương và thúc đẩy văn hoá dựa trên đặc điểm, tiềm năng của từng vùng. Thế mạnh của các địa phương được hai bên khai thác triệt để nhằm tăng cường tính bổ trợ và tạo nên tình huống hợp tác đôi bên cùng có lợi.
Tuy nhiên, xu hướng hợp tác địa phương vẫn chỉ tập trung ở một số khu vực nhất định của Việt Nam và Nhật Bản vốn có hiểu biết và mối quan hệ kinh tế - lịch sử lâu năm và điều kiện kinh tế phát triển như Hà Nội, TP. Hồ Chính Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng… Cho đến nay, mặc dù 37 bản ghi nhớ hợp tác giữa các địa phương của Việt Nam và Nhật Bản đã được ký kết, con số này còn rất nhỏ bé với tiềm năng quan hệ hợp tác giữa hai nước.
Tăng cường kết nối kinh tế Việt Nam - Nhật Bản
Việt Nam luôn đề cao mối quan hệ với Nhật Bản và đã triển khai thực hiện nhiều hoạt động cấp vĩ mô và vi mô để để củng cố mối quan hệ này. Tuy nhiên, trong thời gian qua việc hợp tác chiến lược nhằm nâng cao năng lực sản xuất giữa Việt Nam và Nhật Bản vẫn chưa đạt được những kết quả như mong đợi và chưa phát huy được những lợi ích to lớn trong quan hệ đối tác chiến lược giữa hai quốc gia. Chính vì vậy, các chủ trương, chính sách trong bối cảnh mới cần phải tạo ra các giải pháp thúc đẩy các doanh nghiệp Nhật Bản tăng cường đầu tư chiều sâu tại Việt Nam và liên kết chặt chẽ hơn với các doanh nghiệp Việt Nam.
Nâng cao năng suất
Năng suất lao động là chìa khoá để nâng cao năng lực của doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Nâng cao năng suất lao động cũng là một trong những nội dung trọng yếu của chương trình hợp tác Việt Nam - Nhật Bản. Một áp lực liên tục và mạnh mẽ đối với các doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư tại một số nền kinh tế châu Á, trong đó có Việt Nam là vấn đề tăng lương. Khả năng cạnh tranh của Việt Nam sẽ bị mài mòn nếu lương tăng nhanh hơn so với năng suất lao động. Trong trường hợp như vậy, các ngành thâm dụng lao động sẽ dịch chuyển sang các nước khác để tìm kiếm chi phí nhân lực với mức lương thấp hơn. Điều này có nghĩa là khả năng cạnh tranh về chi phí của Việt Nam sẽ mất đi. Trong khi đó, nếu vẫn chưa trang bị cho nguồn nhân lực kỹ năng, kiến thức và năng lực tổ chức cao hơn thì các ngành công nghiệp công nghệ có giá trị cao sẽ không xuất hiện và quá trình công nghiệp hoá sẽ dừng lại. Để nâng cao năng suất lao động, nhóm nghiên cứu lưu ý 3 vấn đề:
Thứ nhất, cần phải thu thập, phân tích và xây dựng hệ thống thông tin và thông tin và dữ liệu quốc gia về năng suất lao động và tiền lương. Dựa trên dữ liệu được thu thập, biến động của tiền lương và năng suất cần được phân tích và công bố công khai.
Thứ hai, xây dựng phong trào năng suất quốc gia và nâng cao nhận thức của tất cả mọi tầng lớp trong xã hội về tầm quan trọng của năng suất. Chính phủ, nhà quản lý và người lao động cần cam kết nỗ lực hết sức để nâng cao năng suất như một mục tiêu chung của quốc gia.
Thứ ba, hợp tác với các đối tác, đặc biệt là Nhật Bản để thực hành nâng cao năng suất.
Theo nhóm nghiên cứu của đề tài thì trong 3 vấn đề trên, nâng cao nhận thức là vấn đề quan trọng nhất và khó khăn nhất. Tất cả các tầng lớp trong xã hội phải được thuyết phục và cam kết thực hiện. Trong quá khứ, Nhật Bản tương đối thành công trong việc hướng dẫn phong trào năng suất quốc gia cho các quốc gia khác, đặc biệt là Singapore. Trong giai đoạn 1983-1990, Nhật Bản đã hỗ trợ phong trào năng suất quốc gia của Singapore thông qua một dự án lớn về đào tạo nhân viên, xây dựng mô hình công ty, xúc tiến tư vấn tư nhân... Mô hình của Singapore là bài học kinh nghiệm tốt cho Việt Nam và các nước học hỏi.
Học hỏi và chuyển giao công nghệ
Cải thiện năng suất có thể đạt được bằng cách tạo dựng các mối quan hệ hiệu quả với khu vực FDI thông qua chuyển giao công nghệ. FDI của Nhật Bản là nguồn vốn FDI lớn thứ hai vào Việt Nam, rất phù hợp với chiến lược chuyển giao công nghệ trong liên kết FDI. Các đặc điểm nổi bật trong mô hình kinh doanh của Nhật Bản là: (i) định hướng sản xuất, (ii) luôn theo đuổi chất lượng tốt nhất và sự hài lòng của khách hàng, (iii) có định hướng lâu dài, (iv) xây dựng quan hệ sản xuất lâu dài, (v) luôn sẵn sàng truyền đạt các kỹ năng, kỹ thuật phức tạp cho các công ty địa phương và người lao động và (vi) tuân thủ nghiêm túc các quy định về lao động, thuế và môi trường của địa phương. Những đặc điểm riêng biệt này của khu vực FDI đến từ Nhật Bản cần được lưu ý và áp dụng triệt để trong bối cảnh của Việt Nam.
Học hỏi và chuyển giao công nghệ là một trong những giải pháp quan trọng thúc đẩy kết nối kinh tế Việt Nam - Nhật Bản.
Mặc dù vậy, cần phải nhấn mạnh rằng, liên kết với các doanh nghiệp FDI không tự động nâng cao trình độ công nghệ và năng lực của doanh nghiệp và quốc gia. Quá trình chuyển giao công nghệ không diễn ra tự phát. Sự có mặt của các doanh nghiệp toàn cầu của Nhật Bản như Honda, Toyota, Canon… không có nghĩa là công nghệ sẽ tự động chuyển giao cho Việt Nam. Những công ty đa quốc gia như vậy thường đến các nước đang phát triển để thực hiện các công đoạn lắp ráp thâm dụng lao động, vốn là phân khúc tạo ra giá trị thấp nhất của chuỗi cung ứng toàn cầu, bởi các công đoạn này quá tốn kém khi thực hiện ở các nước phát triển. Trong khi các nước đang phát triển thường mong muốn công nghệ cao, thì kiến thức độc quyền là bí mật của công ty được bảo vệ nghiêm ngặt bởi quyền sở hữu trí tuệ và sẽ không được chuyển giao cho các đối tác là các nước phát triển nếu không được trả phí cao. Hơn nữa, chuyển giao công nghệ sẽ không xảy ra trừ khi nước chủ nhà được đánh giá là có khả năng hấp thụ và là vị trí tốt nhất cho mục đích này, và rằng việc chuyển giao sẽ mang lại lợi ích cho các công ty đa quốc gia trong chiến lược kinh doanh toàn cầu của mình. Do vậy, với trình độ phát triển ở mức trung bình thấp, mô hình chuyển giao công nghệ thích hợp nhất cho Việt Nam là học hỏi các kiến thức/công nghệ phổ cập do các công ty Nhật Bản truyền đạt lại. Các công ty nước ngoài truyền đạt lại công nghệ vì họ muốn mua được các thiết bị đã được cải tiến từ các công ty tiếp nhận chuyển giao công nghệ sau quá trình giảng dạy. Chuyển giao công nghệ theo cách này thực sự hữu dụng, tránh được việc chỉ học lý thuyết và sẽ lãng quên ngay sau đó. Việc giảng dạy như vậy diễn ra hoàn toàn tự động vì các tập đoàn đa quốc gia cần các nhà cung cấp đáng tin cậy để cạnh tranh toàn cầu. Việt Nam cũng đã có những trường hợp tự phát như Sanyo huấn luyện công ty ép nhựa địa phương, Honda tập huấn doanh nghiệp nhà nước về kỹ thuật sản xuất các linh kiện kim loại, các công ty thủy sản của Nhật Bản hướng dẫn cách xuất khẩu tôm đông lạnh đảm bảo chất lượng và an toàn sang thị trường Nhật Bản... Tuy nhiên, những cải tiến bằng lợi ích cá nhân thường bị giới hạn về quy mô so với quy mô của nền kinh tế quốc dân và không thể tạo ra kết quả đáng kể để thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa. Do vậy cần có chính sách để thúc đẩy và mở rộng hoạt động dạy và học theo hướng “đôi bên cùng có lợi”.
Cải thiện chất lượng nguồn nhân lực
Cải thiện chất lượng nguồn nhân lực công nghiệp là một trong những trọng tâm để thúc đẩy liên kết kinh tế Việt Nam - Nhật Bản được cả hai quốc gia đặc biệt quan tâm. Nội dung này có liên quan chặt chẽ tới quá trình nội lực hóa công nghệ, chuyển giao công nghệ tại Việt Nam cũng như giải quyết vấn đề dư thừa lao động cao tuổi chất lượng cao, nhưng thiếu hụt lao động công nghiệp trẻ tại Nhật Bản trong bối cảnh già hóa dân số. Nguồn nhân lực công nghiệp chất lượng cao phải là lợi thế động của Việt Nam trong tương lai. Trong mối quan hệ với Nhật Bản, trong giai đoạn tới, các ưu tiên phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam cần tập trung vào 3 vấn đề: (i) nâng cấp chất lượng các cơ sở đào tạo nghề trong một số ngành sản xuất mũi nhọn với các trọng tâm (sự tham gia của đơn vị sử dụng lao động; phát triển chương trình đào tạovà phát triển năng lực giảng viên); (ii) xúc tiến chương trình sử dụng các chuyên gia Nhật Bản đã về hưu và (iii) tăng cường trao đổi nguồn nhân lực thông qua chương trình thực tập sinh kỹ năng tại các doanh nghiệp Nhật Bản.
Các giải pháp khác
Bên cạnh các giải pháp cơ bản đã trình bày ở trên, nhóm nghiên cứu của đề tài cũng lưu ý một số giải pháp khác như: cải thiện môi trường kinh doanh, xây dựng các khu công nghiệp, FDI marketing, thúc đẩy tinh thần doanh nhân Việt Nam... Các vấn đề này từ lâu đã được thực hiện tại Việt Nam với sự hỗ trợ của Nhật Bản song kết quả thu được vẫn chưa khả quan. Hoàn thiện các chính sách này là hết sức cần thiết, tạo tiền để thúc đẩy liên kết kinh tế Việt Nam và Nhật Bản.
VVH