Phát biểu khai mạc Hội thảo, Phó Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo Chu Thúc Đạt cho biết, Hội thảo là cơ hội để cơ quan quản lý chia sẻ thông tin, đồng thời được lắng nghe ý kiến của đại diện các hiệp hội, doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học và các chuyên gia về chỉ số ĐMST và tiêu chí đo lường, đánh giá hiệu quả ĐMST của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, có các giải pháp phù hợp và kịp thời để đưa chính sách vào cuộc sống, từng bước nâng cao năng lực công nghệ và ĐMST của các ngành, lĩnh vực nói riêng và của quốc gia nói chung, hướng đến mục tiêu trên 40% doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo vào năm 2030.

Toàn cảnh Hội thảo.
Đo lường và thúc đẩy tỷ lệ doanh nghiệp thực hiện đổi mới sáng tạo ở Việt Nam
Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu, ĐMST đã trở thành yếu tố sống còn cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Tại Việt Nam, công tác đo lường và thúc đẩy ĐMST đang được triển khai có hệ thống nhằm phản ánh thực chất năng lực đổi mới trong khối doanh nghiệp và đề xuất chính sách phù hợp. Theo số liệu từ Trung tâm Hỗ trợ ĐMST (thuộc Cục ĐMST), chỉ số tỷ lệ doanh nghiệp thực hiện ĐMST được xác định thông qua khảo sát chọn mẫu dựa trên phương pháp Sổ tay Oslo của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD). Năm 2024, mẫu khảo sát bao gồm 2.000 doanh nghiệp thuộc các ngành chế biến chế tạo, khai khoáng; đến năm 2025 mở rộng thêm sang các lĩnh vực thông tin và truyền thông, tài chính, ngân hàng và bảo hiểm.

Ông Nguyễn Võ Hưng - Trung tâm Hỗ trợ Đổi mới sáng tạo chia sẻ tham luận.
Chia sẻ tại Hội thảo, ông Nguyễn Võ Hưng - Trung tâm Hỗ trợ ĐMST cho biết, khái niệm ĐMST được tiếp cận một cách rõ ràng, đó là những sản phẩm hoặc quy trình mới hoặc được nâng cấp đáng kể so với trước đó và đã được đưa đến người dùng (sản phẩm) hoặc đưa vào sử dụng trong đơn vị (quy trình). Các dạng đổi mới bao gồm: sản phẩm mới, quy trình kinh doanh mới, hoặc các chức năng kinh doanh như sản xuất, logistics, tiếp thị, quản trị, phát triển sản phẩm… Tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sản phẩm và quy trình trong năm 2022 chiếm khoảng 29%, cao hơn năm 2021 (26%). Tuy nhiên, số doanh nghiệp không thực hiện bất kỳ đổi mới nào vẫn chiếm tỷ lệ lớn, từ 42% ở khối doanh nghiệp lớn đến gần 79% ở khối doanh nghiệp nhỏ.
Điều này phản ánh sự phân hóa đáng kể về năng lực ĐMST giữa các nhóm doanh nghiệp. Doanh nghiệp lớn có xu hướng thực hiện cả đổi mới sản phẩm và quy trình với tỷ lệ cao hơn (23,6% năm 2022), trong khi doanh nghiệp nhỏ chủ yếu không tham gia đổi mới do thiếu nguồn lực, công nghệ và nhân lực chuyên môn. Để thúc đẩy tỷ lệ doanh nghiệp thực hiện ĐMST, ba nhóm biện pháp đã được đề xuất: phía cung (tăng cường tài trợ, hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn), phía cầu (tạo động lực thị trường thông qua mua sắm công, giải thưởng đổi mới) và nhóm giải pháp thể chế (xây dựng quy chuẩn, tiêu chuẩn, dự báo công nghệ, chính sách hỗn hợp).
Khảo sát đổi mới cộng đồng (CIS) 2024 cũng đặt ra nhiều câu hỏi căn bản nhằm làm rõ động cơ đổi mới trong doanh nghiệp: doanh nghiệp ĐMST để đạt được điều gì, thực hiện ra sao, ai là người đóng vai trò quyết định và gặp trở ngại gì trong quá trình triển khai. Việc làm rõ các câu hỏi này không chỉ giúp hoạch định chính sách hỗ trợ phù hợp mà còn góp phần kiến tạo môi trường đổi mới năng động, cạnh tranh lành mạnh, hướng tới phát triển kinh tế dựa trên tri thức và sáng tạo. Trong tương lai gần, việc tăng cường đầu tư công nghệ, hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo và cải thiện môi trường thể chế sẽ đóng vai trò thiết yếu trong việc nâng cao tỷ lệ ĐMST trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.
Thực trạng và góc nhìn chỉ số đổi mới sáng tạo ngành Việt Nam từ nghiên cứu của VIIR 2024
Phát biểu tại Hội thảo, PGS.TS Phan Thị Thục Anh - Giám đốc trung tâm ĐMST VinUni cho biết, Dự án nghiên cứu chỉ số ĐMST ngành (VIIR) do Trường Đại học VinUni phối hợp cùng Bộ Khoa học và Công nghệ thực hiện đã cung cấp một bức tranh toàn diện về hệ sinh thái ĐMST ngành tại Việt Nam. Phương pháp tiếp cận của nghiên cứu dựa trên ba lớp phân tích: quốc gia, ngành và doanh nghiệp. Trên cơ sở này, nhóm nghiên cứu đã xây dựng bộ chỉ số với ba nhóm đầu vào: bối cảnh - chiến lược - nguồn lực; nhân lực - kỹ năng - nghiên cứu; công nghệ - đầu tư nghiên cứu và phát triển (R&D) - đối tác; và ba nhóm đầu ra: đổi mới kinh doanh, đổi mới xã hội và đổi mới môi trường. Tổng cộng có 130 chỉ báo được sử dụng, kết hợp từ dữ liệu quốc tế và khảo sát trực tiếp tại doanh nghiệp.

PGS.TS Phan Thị Thục Anh phát biểu tại Hội thảo.
Theo kết quả VIIR 2024, Việt Nam xếp hạng đầu trong nhóm quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp. Mặc dù còn đứng sau nhiều quốc gia thu nhập cao như Mỹ, Anh, Thụy Sỹ về tổng thể, nhưng Việt Nam thể hiện hiệu suất đáng chú ý trong một số trụ cột như đổi mới môi trường, tác động khí hậu và đa dạng sinh học, thậm chí vượt qua cả Singapore ở một số chỉ số. Trong phân tích theo ngành, giáo dục và đào tạo được đánh giá là ngành dẫn đầu về ĐMST cả về đầu vào lẫn đầu ra, với 16/64 tổ chức được xếp loại xuất sắc toàn diện. Tiếp sau là các ngành y tế, dược phẩm, du lịch, sản xuất thực phẩm và bất động sản.
PGS.TS Phan Thị Thục Anh nhấn mạnh vào mối tương quan rõ rệt giữa hiệu suất đổi mới và mức độ đầu tư vào tài nguyên - nhân lực - công nghệ. Ngành giáo dục dù chủ yếu là các tổ chức quy mô nhỏ nhưng đạt thành tựu vượt kỳ vọng, trở thành hạt nhân trong hệ sinh thái ĐMST quốc gia. Trong khi đó, một số ngành như nuôi trồng thủy sản thể hiện hiệu suất kém, ít doanh nghiệp vượt kỳ vọng và cần tái đầu tư chiến lược để cải thiện. Đáng chú ý, có khoảng cách không nhỏ giữa nhận thức của doanh nghiệp trong nước và đánh giá toàn cầu. Ví dụ, doanh nghiệp Việt Nam tự đánh giá cao về kỹ năng và đa dạng nhân lực, nhưng xếp hạng toàn cầu lại thấp trong nhóm chỉ số này.
Ở cấp độ doanh nghiệp, khảo sát cho thấy, 43% tổ chức có nhân sự tham gia hoạt động R&D, 38% có sản phẩm cải tiến trong 3 năm qua và chỉ 32% sở hữu tài sản trí tuệ như sáng chế, bản quyền. Những con số này phản ánh mức độ phổ biến còn hạn chế của hoạt động ĐMST tại cơ sở. Dù vậy, ngành sản xuất thực phẩm và xây dựng lại có nhiều tổ chức vượt kỳ vọng, cho thấy tiềm năng phát triển mạnh nếu được đầu tư đúng hướng. Báo cáo cũng khuyến nghị cần thúc đẩy liên kết giữa các bên, tăng cường quản trị đổi mới và cải thiện năng lực thực thi chính sách ở từng ngành cụ thể.
Kết luận từ nghiên cứu VIIR cho thấy, ĐMST không chỉ là thước đo năng lực công nghệ mà còn là chỉ dấu cho khả năng quản lý, thích ứng và phát triển bền vững của từng ngành. Sự vào cuộc đồng bộ từ chính sách, doanh nghiệp và các tổ chức nghiên cứu sẽ là yếu tố quyết định để nâng tầm hệ sinh thái đổi mới sáng tạo ngành tại Việt Nam trong giai đoạn tới.
Xuân Bình