Những khó khăn
Hành trình áp dụng AI trong các cơ quan Nhà nước ở Việt Nam nằm trong bối cảnh chung về nhân lực công nghệ thông tin (CNTT) của hệ thống các cơ quan nhà nước. Theo đó, tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) làm về chuyển đổi số trên tổng số CBCCVC năm 2022 là 2,19%, trong đó ở Trung ương là 4,07%, ở cấp địa phương trung bình là 2,09% (tỷ lệ này của các quốc gia phát triển là hơn 10%). Bên cạnh đó, bộ máy và nhân lực nói chung cần phải cắt giảm, tinh giản, nghỉ việc, chuyển công tác, nhất là trong bối cảnh sắp xếp lại bộ máy và nhập tỉnh, bỏ chính quyền cấp huyện, giảm đơn vị cấp cơ sở; trong khi chức năng, nhiệm vụ thực hiện chuyển đổi số như ứng dụng AI ngày càng nhiều lên. Như vậy, ứng dụng AI trong các cơ quan nhà nước ở Việt Nam gặp thách thức trước hết ở thiếu số lượng nhân lực nói chung về chuyển đổi số.

Nguồn nhân lực trí tuệ nhân tạo trong các cơ quan nhà nước gặp nhiều khó khăn (nguồn: NN&MT).
Nghiên cứu của IPS cho thấy, ở địa phương, để triển khai hạ tầng kỹ thuật, phần mềm, ứng dụng, nền tảng mới như AI, chỉ có một đến hai người có chuyên môn CNTT ở một sở, ngành (không tính ngành thông tin và truyền thông). Tình trạng quá tải công việc, dẫn đến căng thẳng, thiếu động lực đã xuất hiện. Trong khi đó, lâu nay ở các tỉnh, thành phố đều có đơn vị sự nghiệp công lập CNTT có thể làm những việc chuyên môn, kỹ thuật như ứng dụng AI cho các sở, ngành khác, nhưng lại thiếu cơ chế, nhất là cơ chế tài chính để bên có “cầu” chi trả để tận dụng nhân lực của bên có “cung”.
Nhân lực lõi trong chuyển đổi số của CBCCVC có chuyên môn công nghệ thông tin, công nghệ số vẫn còn “mỏng”, chưa được trang bị chuyên môn liên quan tới công nghệ tiên tiến (ví dụ như AI, phân tích dữ liệu). Hạn chế này gặp phải trở ngại về biên chế, lương thưởng, khó có thể tuyển dụng “nhân tài” công nghệ từ các trường hay khu vực tư nhân.
Thách thức lớn hơn đối với việc ứng dụng AI trong các cơ quan nhà nước ở Việt Nam là thiếu nhân sự đủ năng lực về AI. Mặc dù có những cá nhân có khả năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể liên quan đến AI, nhưng vẫn tồn tại khoảng cách chuyên môn đáng kể trong năng lực nói chung của CBCCVC để làm đầu mối phụ trách phát triển các ứng dụng AI vào hoạt động của cơ quan, ngành mình, hoặc trong trực tiếp sử dụng, vận hành các công cụ AI đó vào công việc. CBCCVC ở các sở, ngành không phải là CNTT thiếu kiến thức cơ bản về AI, cách thức AI vận hành, những lợi ích đi kèm với rủi ro trong ứng dụng AI, những nguyên tắc và kỹ năng cụ thể trong ứng dụng AI ở các cơ quan nhà nước; thiếu năng lực ứng dụng công nghệ vào lĩnh vực được giao phụ trách như nông nghiệp, du lịch, môi trường.
Theo khảo sát và phỏng vấn sâu của nhóm nghiên cứu thuộc IPS, ở Việt Nam chưa có chương trình đào tạo hay khóa học nào cho CBCCVC về chuyên môn công nghệ cao như AI. Điều này dẫn đến việc thiếu người chuyên môn đủ sâu trong bộ máy để vận hành các mô hình AI. Chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuyển đổi số CBCCVC mới chỉ tác động được đến nhận thức, chưa bước vào giai đoạn giới thiệu, đào tạo kỹ năng ứng dụng công nghệ số, trong đó có AI trong công việc hằng ngày; đặc biệt là các kỹ năng như phân tích, xử lý dữ liệu phục vụ cho công việc hiện hành.
Trong bối cảnh rộng lớn hơn của nền kinh tế, nguồn nhân lực cấp cao chủ yếu tập trung vào các công ty công nghệ hàng đầu như Viettel, FPT cũng như các công ty cung cấp giải pháp AI với việc làm ổn định và phúc lợi đáng kể. Các tổ chức này cung cấp một môi trường thu hút và giữ chân nhân tài hàng đầu bằng cách cung cấp mức lương cạnh tranh, phúc lợi toàn diện và cơ hội phát triển nghề nghiệp. Các nguồn lực nghiên cứu chất lượng cao cũng chủ yếu được tìm thấy tại các trường đại học, cả trong nước và quốc tế, nơi diễn ra nghiên cứu và đổi mới tiên tiến. Các tổ chức này đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển thế hệ chuyên gia và nhà lãnh đạo tiếp theo trong các lĩnh vực khác nhau.
Một số khuyến nghị nhằm phát triển nhân lực trí tuệ nhân tạo trong các cơ quan nhà nước
Trong bối cảnh hiện nay, khi tinh giản biên chế đang diễn ra, cộng với các chế độ đãi ngộ thiếu hấp dẫn, rất khó khăn để thu hút “nhân tài” AI vào các cơ quan nhà nước. Để có nhân lực đủ năng lực ứng dụng AI trong các cơ quan nhà nước ở Việt Nam, nghiên cứu của IPS khuyến nghị một số giải pháp sau:
Một là, củng cố nhân lực phụ trách chuyển đổi số nói chung: Dựa trên Quyết định 1690/QĐ-TTg ngày 26/12/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án "Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực quản lý nhà nước và thực thi pháp luật về chuyển đổi số từ Trung ương đến địa phương đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 đã đề ra các mục tiêu cụ thể về bộ máy, nhân lực chuyển đổi số nói chung, trong đó có ứng dụng AI, các đơn vị chuyên trách CNTT cần được tăng cường bố trí biên chế để đáp ứng yêu cầu triển khai nhiệm vụ, giải pháp mới về chuyển đổi số; các cơ quan, đơn vị của bộ, tỉnh bố trí bộ phận hoặc nhân sự đầu mối thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi số tại cơ quan mình, trong đó cần nêu cụ thể nhiệm vụ ứng dụng AI.
Hai là, xây dựng nhân lực AI: Trước hết, cần xây dựng, phát triển nhân lực quản lý và vận hành, huấn luyện AI gồm có các chuyên gia hoặc có cán bộ CNTT chuyên sâu về AI, dữ liệu, an ninh mạng để vận hành và tối ưu hệ thống, tối ưu các mô hình huấn luyện dữ liệu. Đồng thời, cần có nhân lực về các lĩnh vực chuyên môn qua hình thức Tổ chuyên gia các lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ để xây dựng luồng quy trình, tổng hợp tri thức, sơ đồ tư duy, đánh giá kiểm duyệt chất lượng, giá trị dữ liệu mà người dùng tương tác, tạo sinh ngôn ngữ tự nhiên.
Ba là, đào tạo lại, đào tạo nâng cao: Để giữ chân những người có năng lực đang làm trong khu vực nhà nước, đào tạo lại và đào tạo nâng cao về công nghệ, trong đó có AI; học qua làm - ứng dụng AI trong thực tế là một phương án khả thi. Phương án này cần được nhận thức rõ và thực hiện cả ở tầm quốc gia trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng CBCCVC, cả trong từng bộ, ngành, địa phương.
Trong đó, có hai nhóm CBCCVC cần đào tạo hai loại năng lực khác nhau. Đối với nhóm nhân lực lõi phụ trách ứng dụng AI, cần chú ý nâng cao các kiến thức, kỹ năng chuyên môn, kỹ thuật như lập trình, khoa học dữ liệu, khoa học máy tính, học máy; năng lực triển khai các dịch vụ công kỹ thuật số dựa trên AI; công nghệ đám mây, an ninh mạng... Có thể cấp kinh phí để nhóm nhân lực này tham gia các khóa đào tạo dài hạn và ngắn hạn về các nội dung trên.
Đối với CBCCVC các ngành khác, cần đào tạo, bồi dưỡng về cách sử dụng AI trong các cơ quan nhà nước như: kiến thức cơ bản về AI; mối quan hệ giữa AI, dữ liệu và cách áp dụng mối quan hệ này cho dịch vụ công hiện đại; sử dụng các công cụ AI như: tạo lời nhắc và lệnh hiệu quả, phát hiện những điểm không chính xác trong đầu ra AI, sử dụng GenAI để soạn thảo văn bản; xác định, chọn các công cụ AI tạo sinh khác nhau dành cho công chức.
Bốn là, thu hút nhân lực AI ngoài khu vực nhà nước: Chính phủ đã ban hành Nghị định số 179/2024/NĐ-CP ngày 31/12/2024 Quy định chính sách thu hút, trọng dụng người có tài năng làm việc trong cơ quan, tổ chức, đơn vị của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Trong đó, có những chính sách ở mức độ nhất định có thể thu hút nhân lực AI từ các doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu trong và ngoài nước cộng tác làm việc trong các dự án AI của khu vực công. Cụ thể, các bộ, ngành, cơ quan Trung ương và địa phương được ký hợp đồng lao động đối với chuyên gia, nhà quản lý, nhà quản trị doanh nghiệp, nhà khoa học là người Việt Nam hoặc là người nước ngoài để triển khai nhiệm vụ, dự án, đề án cụ thể.
VVH