Kinh nghiệm từ Nhật Bản và Hàn Quốc
Tại đất nước mặt trời mọc, chiến tranh thế giới lần thứ hai đã gây thiệt hại nặng nề với tổng giá trị thiệt hại lên tới 61,3 tỷ yên [1]. Sau khi chiến tranh kết thúc, nền kinh tế Nhật Bản bị rơi vào khủng hoảng trầm trọng như thất nghiệp (13,1 triệu người không có việc làm), thiếu nguyên liệu, lương thực và lạm phát gia tăng. Tuy nhiên, Nhật Bản đã từng bước khôi phục nền kinh tế và phát triển với một tốc độ chóng mặt.
Để có được sự phát triển thần kỳ đó, yếu tố đầu tiên được Nhật Bản đề cao là con người. Quốc gia này rất chú trọng đào tạo đội ngũ nhân lực lành nghề, kết hợp khả năng nắm bắt, sử dụng kỹ thuật và công nghệ mới để tăng NSLĐ. Giai đoạn 1960-1980, Nhật Bản là nước có NSLĐ cao hàng đầu thế giới và có quá trình cải thiện NSLĐ hiệu quả. Nhật Bản đã sử dụng 3 công cụ quan trọng trong cải thiện NSLĐ, gồm: i) hệ thống quản lý chất lượng toàn diện; ii) bảo trì năng suất tổng thể; iii) sản xuất tiết kiệm hay cải tiến liên tục. Nhờ các biện pháp này kết hợp với chiến lược phát triển của Chính phủ Nhật Bản, nền kinh tế Nhật Bản đã phát triển thần kỳ và trở thành một trong 3 trung tâm kinh tế - tài chính của thế giới.
Tăng NSLĐ là mục tiêu hàng đầu mà các quốc gia trên thế giới đang hướng đến.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, NSLĐ của Nhật Bản sụt giảm đáng kể. Từ một nước đi đầu trong công cuộc tự động hóa, tập trung nâng cao khả năng sản xuất, Nhật Bản lại là nước có năng suất làm việc thấp nhất trong nhóm G7. Tốc độ tăng NSLĐ của Nhật Bản đã đình trệ dưới 2% trong suốt 2 thập kỷ qua, khoảng cách tăng trưởng năng suất giữa Nhật Bản và các nền kinh tế phát triển ngày càng lớn. Để khắc phục vấn đề này, Chính phủ Nhật Bản đã đưa ra các giải pháp, cụ thể là:
Thứ nhất, giữ chân lao động lớn tuổi nhiều kinh nghiệm, Nhật Bản đang tăng dần tuổi nghỉ hưu từ 60 lên 65 tuổi vào năm 2025, đồng thời đưa ra các lựa chọn việc làm cho người lao động đến tuổi nghỉ hưu, giữ chân lao động lớn tuổi và hỗ trợ lao động tạm thời. Các công ty tư nhân nỗ lực thực hiện các mô hình việc làm linh hoạt hơn và điều chỉnh các hình thức lao động để thu hút người lao động lớn tuổi ở lại làm việc.
Thứ hai, giải quyết hạn chế về nguồn cung lao động bằng cách xem xét lại chính sách nhập cư và áp dụng các công nghệ thế hệ mới. Cải thiện NSLĐ trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng và tái cấu trúc để tạo ra môi trường công nghiệp cạnh tranh, dễ thích ứng hơn. Bên cạnh đó, Chính phủ Nhật Bản đã xây dựng kế hoạch và thực hiện chương trình cải cách phong cách làm việc. Theo đó, tổng số giờ làm thêm giảm xuống và số ngày nghỉ phép năm của người lao động sử dụng được tăng lên. Ngoài ra, Chính phủ Nhật Bản cũng thực hiện thay đổi phương thức làm việc, chuyển sang làm việc từ xa, làm việc tại nhà nhiều hơn, tăng sử dụng lao động là phụ nữ và người nước ngoài nhằm cải thiện NSLĐ.
Đối với Hàn Quốc, từ giữa những năm 1970, NSLĐ trong lĩnh vực chế biến, chế tạo của Hàn Quốc thấp hơn 40% NSLĐ của Nhật Bản và chưa bằng 20% NSLĐ của Mỹ. Tuy nhiên, đến giữa những năm 1980, NSLĐ của Hàn Quốc bắt đầu tăng nhanh, thu hẹp khoảng cách với các quốc gia phát triển. Ngay trước cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, NSLĐ của Hàn Quốc đã bằng 70% NSLĐ của Nhật Bản và bằng 50% NSLĐ của Mỹ. Sự thu hẹp khoảng cách mạnh mẽ này có được là nhờ tăng NSLĐ trong những năm 1980 và 1990 của Hàn Quốc tăng rất cao, tăng bình quân 8,6%/năm và 10,3%/năm, trong khi Mỹ tăng lần lượt là 6,3%/năm và 3,5%/năm; Nhật Bản là 6,5%/năm và 3,4%/năm. Từ năm 1990 đến nay, NSLĐ ở Hàn Quốc đã tăng với tốc độ bình quân 4,7%/năm, cao hơn nhiều so với mức bình quân 1,9%/năm của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD); năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đã đóng góp trung bình 1,75% vào tăng trưởng GDP mỗi năm, trong khi mức đóng góp này của ở Mỹ là 0,5% [1].
Tăng năng suất nhanh cho thấy sự bắt kịp nhanh chóng của Hàn Quốc với các quốc gia có thu nhập cao. Tuy nhiên, tốc độ tăng NSLĐ đã chậm lại khi Hàn Quốc tiến tới biên giới tri thức toàn cầu, theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), tốc độ tăng trưởng tiềm năng của Hàn Quốc đã chậm lại, từ hơn 9% vào đầu những năm 1990 xuống còn khoảng 3% trong năm 2016.
Sự sụt giảm là do hai yếu tố: i) đóng góp của đầu vào lao động giảm do tốc độ tăng dân số trong độ tuổi lao động và số giờ làm việc giảm; ii) phản ánh phần nào sự hội tụ của Hàn Quốc đối với các nước có thu nhập cao. NSLĐ của Hàn Quốc khác biệt với các nước phát triển trong nhóm OECD là do NSLĐ ngành dịch vụ của Hàn Quốc thấp (chỉ bằng 45% NSLĐ ngành chế biến, chế tạo trong năm 2014), so với mức trung bình 90% của OECD. Dịch vụ chiếm 59,2% GDP của Hàn Quốc, thấp hơn nhiều so với mức trung bình của OECD, vì sự phát triển mạnh mẽ về xuất khẩu đã hút vốn, nhân tài và các nguồn lực khác khỏi dịch vụ để tập trung vào lĩnh vực chế biến, chế tạo. Điều này làm cho tốc độ tăng năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) của lĩnh vực dịch vụ thấp. Giai đoạn 2001-2009, tăng TFP đóng góp 1% vào tăng trưởng khu vực dịch vụ, thấp hơn so với mức đóng góp 1,7% trong lĩnh vực chế biến, chế tạo. Lĩnh vực dịch vụ có mức thâm dụng vốn thấp, vốn trên mỗi lao động thấp hơn nhiều so với các nền kinh tế phát triển, do đó kìm hãm tăng NSLĐ. Ngoài ra, liên kết giữa dịch vụ và các lĩnh vực khác còn yếu. Tỷ trọng của dịch vụ như hàng hóa trung gian trong tất cả ngành công nghiệp của Hàn Quốc chỉ ở mức 16% năm 2011 so với khoảng 26% tại Mỹ và Đức [1].
Bài học cho Việt Nam
Từ kinh nghiệm của Nhật Bản và Hàn Quốc, TS Hà Minh Hiệp - Phó Tổng cục trưởng phụ trách Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng cho biết, để tăng NSLĐ của quốc gia, Việt Nam cần khắc phục được 2 vấn đề sau:
Một là, sự dịch chuyển lao động từ ngành có năng suất thấp sang ngành có năng suất cao. Trong các giai đoạn phát triển trước, đóng góp chủ yếu tăng NSLĐ của Việt Nam là do dịch chuyển cơ cấu. Lao động dịch chuyển từ khu vực nông nghiệp có NSLĐ thấp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ có NSLĐ cao hơn. Tuy nhiên, trong tương lai đây không thể là động lực phát triển bền vững của NSLĐ và thực tế đã chỉ ra, trong những năm gần đây, vai trò của chuyển dịch cơ cấu trong tăng trưởng NSLĐ đã giảm dần [2].
Hai là, tăng trưởng TFP còn thấp, dẫn đến hạn chế tốc độ tăng NSLĐ. Có rất nhiều yếu tố làm TFP tăng trưởng chậm, trong đó quan trọng nhất và đầu tiên vẫn là liên quan tới nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam còn thấp và ý thức lao động chưa cao, chính vì thế không thể hấp thụ tối đa được chuyển giao khoa học và công nghệ, tạo tiền đề cho tăng trưởng năng suất. Nói sâu hơn về chất lượng nguồn nhân lực, mỗi người lao động khi bước vào quá trình làm việc phải luôn ý thức, tư duy về năng suất dựa trên các yếu tố kỹ thuật, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Để thực hiện được điều này, các doanh nghiệp cần được tổ chức đào tạo có bản bản về các hệ thống công cụ, giải pháp về năng suất. Bên cạnh đó, lực lượng lao động rất lớn là sinh viên các trường đại học, cao đẳng và trường nghề - những đối tượng cần trang bị kiến thức làm sao để tăng năng suất, có được giải pháp và công nghệ để thúc đẩy năng suất dựa trên yếu tố về kỹ thuật, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo [2].
Tăng NSLĐ là mục tiêu hàng đầu mà mỗi quốc gia trên thế giới đang hướng đến nhằm thoát khỏi tình trạng kém phát triển và trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Khi các yếu tố đầu vào như vốn, đất đai, tài nguyên trở nên khan hiếm, nguồn lao động đang bị ảnh hưởng do xu thế già hóa dân số, tăng NSLĐ được cho là giải pháp trọng tâm đối với tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Từ kinh nghiệm của Nhật Bản và Hàn Quốc, có thể khẳng định, cải thiện và thúc đẩy nâng cao NSLĐ là một trong những vấn đề cốt lõi đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay, là điều kiện tiên quyết để đưa Việt Nam thu hẹp trình độ phát triển với các nước trong khu vực, thích ứng với xu thế toàn cầu và chống chọi tốt với các cú sốc từ bên ngoài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Tổng cục Thống kê (2020), Báo cáo Năng suất lao động của Việt Nam giai đoạn 2011-2020: Thực trạng và giải pháp.
[2] Hà Minh Hiệp (2023), “Thúc đẩy năng suất dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ở Việt Nam trong giai đoạn tới”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam Bản A, số 1+2, tr.38-40,
Hoàng Dương