Ngành giấy Việt Nam
Ngành giấy là một trong những ngành kinh tế lớn, có tầm quan trọng trong cơ cấu kinh tế nói chung và kinh tế công nghiệp nói riêng. Đây được cho là ngành phụ trợ quan trọng đối với các ngành khác như: điện tử, may mặc, da giày, thủy sản, đồ gỗ… góp phần rất lớn thúc đẩy sự phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa và thương mại điện tử. Ngoài ra, những sản phẩm giấy cũng là một trong những loại hàng hóa cần thiết trong xã hội, đặc biệt cho văn hóa, giáo dục, y tế, thông tin - truyền thông… Năm 2022, ngành giấy Việt Nam có hơn 500 doanh nghiệp sản xuất, trong đó có 20 doanh nghiệp có công suất lớn chiếm 65% sản lượng và hơn 480 doanh nghiệp công suất vừa và nhỏ chiếm ~ 35% sản lượng. Năng lực sản xuất toàn ngành năm 2022 đạt khoảng 8,2 triệu tấn, sản lượng thực tế 5,7 triệu tấn, tiêu thụ 6,8 triệu tấn, nhập khẩu 1,8 triệu tấn, xuất khẩu 0,8 triệu tấn. Trong đó, giấy bao bì chiếm tỉ lệ trên 80%, còn lại là các loại giấy tissue, in viết, vàng mã và các loại giấy khác.
Trong định hướng phát triển, đến năm 2030, ngành giấy Việt Nam sẽ trở thành ngành sản xuất lớn ở khu vực và châu Á, sản lượng giấy và bột giấy đứng thứ 2, giấy bao bì đứng thứ 1 trong khu vực, với ước tính khoảng 10 triệu tấn giấy các loại, 9 triệu tấn giấy bao bì, 1 triệu tấn bột giấy và 0,5 triệu tấn giấy vệ sinh. Tuy nhiên, trong sự phát triển nhanh chóng của toàn ngành, cũng phát sinh một số vấn đề bất cập cần sớm có giải pháp xử lý, để ngành phát triển nhanh và bền vững, đáp ứng được kỳ vọng của người dân và xã hội. Trong đó, phải kể đến sự bất hợp lý như: Việt Nam là nước sản xuất và xuất khẩu dăm gỗ số một thế giới nhưng lại nhập khẩu phần lớn bột giấy để đáp ứng nhu cầu sử dụng trong nước; phần lớn toàn ngành tập trung vào sản xuất giấy mà không chú trọng đến sản xuất bột giấy, nên chưa tận dụng được lợi thế cạnh tranh về nguồn nguyên liệu xơ sợi dồi dào ở trong nước; tập trung sản xuất giấy chất lượng khá và trung bình, nhưng lại nhập khẩu số lượng lớn giấy cao cấp; giấy thu hồi được sử dụng chủ yếu cho sản xuất nhưng tỷ lệ thu gom trong nước vẫn chưa cao, nên phụ thuộc nhiều vào nguồn nhập khẩu; vấn đề môi trường trong sản xuất ở các làng nghề vẫn chưa được giải quyết thấu đáo, gây ảnh hưởng không tốt đối với toàn ngành, làm cho người dân và xã hội hiểu chưa đúng, chưa đầy đủ về vấn đề bảo vệ môi trường của ngành....
Ngành giấy vẫn luôn luôn xác định bảo vệ môi trường là một trong những nhiệm vụ trọng tâm quan trọng ngay từ khi chuẩn bị đầu tư và trong qúa trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong đó, việc tái chế, tái sử dụng và xử lý chất thải để tận dụng đưa trở lại quá trình sản xuất, hướng tới kinh tế tuần hoàn là mục tiêu trọng điểm của ngành trong thời gian tới.
Với mục tiêu đó, đồng xử lý chất thải rắn bằng lò hơi tầng sôi, nhằm tận dụng nhiệt lượng đưa trở lại quá trình sản xuất, đồng thời xử lý được hầu hết chất thải rắn thông thường phát sinh tại cơ sở sản xuất, giảm chi phí đầu tư và vận hành, tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là vấn đề đang được nghiên cứu kỹ lưỡng, nghiêm túc và triển khai áp dụng tại một số nhà máy, đã mang lại hiệu quả và lợi ích rõ rệt.
Đồng xử lý chất thải rắn công nghiệp trong lò hơi tầng sôi tại nhà máy giấy
Trong các quá trình sản xuất công nghiệp như: giấy, hóa chất, thực phẩm, giấy, dệt, nhuộm… hầu hết đều sử dụng hơi nước như một trong các nguồn cung cấp năng lượng. Nhu cầu sử dụng lò hơi trong công nghiệp là tất yếu, dựa vào nhiệt lượng sinh ra của nhiên liệu, biến thành nhiệt năng của hơi nước.
Hiện tại, hầu hết các nhà máy sản xuất giấy có công suất lớn, hiện đại đều sử dụng lò hơi tầng sôi. Lò hơi tầng sôi được phát triển từ những năm 60 của thế kỷ trước, kể từ đó, rất nhiều loại lò hơi tầng sôi ra đời, đốt được nhiều loại nhiên liệu khác nhau đã được phát triển và thương mại hóa trên toàn cầu. Lò đốt tầng sôi có khả năng đốt cháy kiệt các loại nhiên liệu, tiết kiệm chi phí nhiên liệu, đồng thời cũng có khả năng đốt cháy hầu hết các khí hữu cơ phát sinh trước khí thải ra môi trường.
Tại các nhà máy sản xuất giấy bao bì từ nguyên liệu giấy thu hồi có một lượng lớn rác thải công nghiệp thông thường cần xử lý. Trung bình, để sản xuất ra một tấn sản phẩm giấy bao bì công nghiệp từ nguyên liệu giấy thu hồi thì nhà máy sẽ thải ra khoảng 120 kg rác thải, trong đó lượng rác thải có thể thu hồi và tái chế, tái sử dụng chiếm một tỷ trọng lớn. Với tổng công suất giấy bao bì toàn ngành hiện nay khoảng 7 triệu tấn/năm, và sẽ tăng nhanh trong những năm tới thì lượng rác thải công nghiệp của ngành sẽ đạt tới hàng triệu tấn. Thông thường lượng rác thải này hiện nay nhiều nhà máy đều phải thuê các công ty môi trường xử lý bằng cách chôn lấp, hoặc đốt bỏ. Trong khi đó, cơ sở sản xuất có đủ khả năng và trang thiết bị về công nghệ (lò hơi tầng sôi) để trực tiếp xử lý tại chỗ chất thải này, và đây còn là một nguồn phế liệu cần được tái chế, tái sử dụng, đồng xử lý tại các cơ sở sản xuất để thu hồi, chuyển hóa thành nguồn năng lượng phục vụ trở lại cho hoạt động sản xuất của chính cơ sở đó.
Ngoài ra, ở các nhà máy giấy còn có một số loại bùn thải có cũng có thể được xử lý bằng phương pháp đốt để tận dụng nhiệt như: bùn thải từ quá trình xử lý nước thải, cặn bột giấy… Tổng lượng bùn chứa bột giấy có thể chiếm 1-3% sản lượng giấy. Trước khi đưa vào lò hơi cần xử lý bùn thải bằng ép bùn, đưa độ ẩm bùn sau ép về dưới 40% để tái sử dụng làm nguyên liệu đốt cho lò hơi.
Việc sử dụng lò hơi đốt nhiên liệu sinh khối hoặc nhiên liệu hóa thạch đồng đốt kèm rác thải rắn công nghiệp thông thường, cặn bột giấy, bùn thải… trong lò hơi tầng sôi tại các nhà máy sản xuất giấy - nơi phát sinh các nguồn thải này, là sự lựa chọn đúng đắn, có hiệu quả cao cả về kinh tế và bảo vệ môi trường. Trong khi nguồn rác thải là nguồn nhiên liệu có thể tận dụng để tái chế, tái sử dụng và chuyển hóa thành năng lượng, đưa trở lại phục vụ sản xuất. Việc cho phép sử dụng lò hơi tầng sôi đồng xử lý chất thải tại nhà máy sẽ tiết kiệm được tài nguyên, tiết kiệm được chi phí đầu tư và chi phí sản xuất, mang lại lợi ích cho doanh nghiệp và xã hội, góp phần bảo vệ môi trường và hướng tới nền kinh tế xanh, bền vững và mô hình kinh tế tuần hoàn. Để thực hiện được điều này, một số giải pháp đã được đưa ra tại hội thảo như sau:
Một là, nâng cao nhận thức về hiểu biết pháp luật nói chung và về môi trường nói riêng cho doanh nghiệp, vì đây là một trong những đối tượng chính trong sự điều chỉnh của pháp luật.
Hai là, khảo sát chính thức toàn diện và đánh giá hiệu quả của loại hình đồng xử lý cả về mặt kinh tế và môi trường trong phạm vi toàn ngành trên cả nước để làm căn cứ xây dựng các giải pháp thúc đẩy việc đồng xử lý.
Ba là, xây dựng văn bản hướng dẫn cụ thể để các cơ quan quản lý và doanh nghiệp hiểu và triển khai đồng bộ thống nhất từ trung ương đến địa phương.
Bốn là, nghiên cứu xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ cho việc khuyến khích đầu tư đồng xử lý này nhằm tiết giảm chi phí đầu tư và vận hành, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời tăng cường bảo vệ môi trường.
Năm là, nghiên cứu hoàn thiện việc thiết kế chế tạo thiết bị và chế độ công nghệ cho việc đồng xử lý chất thải rắn trong lò hơi tầng sôi. Nghiên cứu bộ tiêu chí đánh giá, cấp phép cho các lò hơi với loại hình công nghệ này.
Mô hình kinh tế tuần hoàn ngày càng được khuyến khích tại Việt Nam, ngành giấy là điển hình trong thực hiện kinh tế tuần hoàn. Trong đó, việc sử dụng lò đốt tầng sôi tại các nhà máy giấy để đồng xử lý chất thải rắn đảm bảo cơ sở pháp lý, cơ sở khoa học, thực tiễn cả trong và ngoài nước nhằm thỏa mãn các quy chuẩn về môi trường, hướng đến sự phát triển bền vững.
Sơn Đặng