Thứ năm, 11/03/2021 15:57

Hoàn thiện chính sách, pháp luật và thực tiễn về lao động phù hợp với các cam kết quốc tế

Việc Việt Nam tham gia Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã đặt ra yêu cầu thực hiện cam kết đối với các nguyên tắc trong Tuyên ngôn của Tổ chức Lao động quốc tế về các quyền và nguyên tắc cơ bản trong lao động, tác động đến việc sửa đổi chính sách, pháp luật và thực tiễn về lao động phù hợp với các cam kết quốc tế.

Vạn sự khởi đầu nan

Thời gian qua, Việt Nam đã tích cực, chủ động đàm phán, ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương và đến nay Việt Nam vẫn đang tiếp tục đàm phán các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Việc tham gia CPTPP đã mang lại thời cơ và cũng đặt ra những thách thức đối với lao động và hoạt động công đoàn trên một số vấn đề sau:

Một là, ảnh hưởng tới vấn đề việc làm, tiền lương, thu nhập của người lao động. Theo đó, các nước tham gia CPTPP đều là các đối tác thương mại và đầu tư lớn ở Việt Nam. Do vậy, khi tham gia Hiệp định sẽ tạo ra thị trường xuất khẩu rộng lớn cho hàng hóa Việt Nam. Cụ thể là: mức thuế dần về 0% trong thời gian rất ngắn cho khoảng 90% các dạng thuế. Điều này sẽ tác động toàn diện tới tất cả các ngành, các hoạt động kinh tế, đặc biệt là sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp và sẽ tác động trực tiếp tới vấn đề việc làm, thu nhập và đời sống của người lao động. Về việc làm, CPTPP sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, mở rộng sản xuất, kinh doanh, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, trong đó tập trung vào các ngành, lĩnh vực như: may mặc, giầy da, thủy hải sản, lắp ráp thiết bị điện tử... Đây phần lớn là những ngành “thâm dụng” lao động, tay nghề của công nhân lao động không cao, thu nhập thấp, dễ phát sinh những “trục trặc” trong quan hệ lao động. Bên cạnh đó, cũng sẽ có không ít ngành, lĩnh vực nội địa chịu sức ép cạnh tranh, khó khăn trong sản xuất, kinh doanh, nguy cơ giảm việc làm, như: dịch vụ, thương mại, sản xuất hàng hóa đòi hỏi công nghệ cao... Về tiền lương và thu nhập, đây vừa là đòi hỏi bắt buộc, vừa là động lực để chúng ta thay đổi cơ cấu đầu tư, chuyển dịch nền kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh và năng suất lao động. Trong xu thế hội nhập và chiều hướng phát triển hiện nay, với tầm nhìn lâu dài và tổng thể, tiền lương và thu nhập của người lao động có xu hướng được cải thiện tốt hơn. Tuy nhiên, để cải thiện tiền lương và thu nhập đòi hỏi chúng ta phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo điều kiện quyết định nâng cao năng suất lao động và hiệu quả quản lý, đầu tư. Trong mọi vấn đề cần xem xét, trong mọi mục đàm phán, thương lượng, năng suất lao động luôn là yêu cầu cốt tử để nuôi dưỡng và  nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trước mắt và tương lai.

Hai là, vấn đề thực thi các nguyên tắc cơ bản của Tổ chức Lao động quốc tế gặp nhiều khó khan. Điều đặc biệt, CPTPP có chứa đựng nhiều nội dung không trực tiếp mang tính thương mại, nhưng có liên quan đến thương mại như quyền của người lao động, các tổ chức xã hội, tiêu chuẩn lao động, tự do thành lập và hoạt động của hiệp hội - công đoàn… Đây là Hiệp định đòi hỏi các quốc gia khi tham gia cần phải có những điều chỉnh chính sách phù hợp, đặc biệt là sửa đổi hệ thống chính sách, pháp luật lao động, công đoàn trong nước, mà những yêu cầu này về cơ bản, hiện nay có điểm chưa hoàn toàn phù hợp với thể chế chính trị, kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Trong các văn bản quốc tế thì nội dung về công đoàn nằm trong nhóm vấn đề về lao động, nên gọi chung là những vấn đề về lao động. Nhưng trong bối cảnh của Việt Nam, vấn đề cần giải quyết là lao động và công đoàn, chứ không chỉ là lao động thuần túy. Do đó, Hiệp định này tác động trực tiếp tới vấn đề thành lập, tổ chức và hoạt động công đoàn ở Việt Nam. Theo ý kiến một số chuyên gia, vấn đề hiệp hội và công đoàn là vấn đề mà Việt Nam cần cân nhắc kỹ lưỡng khi đàm phán thương lượng và ký kết. Các quy định này không phải là vấn đề mới, mà đã được Tổ chức Lao động Quốc tế thực thi và ghi nhận trong các văn kiện của mình, tiêu biểu là Công ước số 87 và Công ước số 98. Trong điều kiện hiện nay, dù muốn hay không, với xu thế hội nhập, Việt Nam sẽ tiếp tục tham gia vào nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới... Điều đó đòi  hỏi tổ chức Công đoàn Việt Nam phải chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động, tăng cường đối thoại thiện chí, bảo đảm thương lượng tập thể thực chất và thực hiện sự tương tác hiệu quả cơ chế ba bên.

Chủ động nắm bắt cơ hội để hội nhập và phát triển

Theo PGS.TS Vũ Quang Thọ, Viện Công nhân và Công đoàn - Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - chủ nhiệm đề tài Quyền tự do liên kết và thiết chế đại diện trong quan hệ lao động ở Việt Nam trong bối cảnh thực hiện Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương - TPP (ngày 11/11/2017, các bộ trưởng TPP đã đạt được thoả thuận cơ bản cho hiệp định TPP-11, đồng thời thống nhất tên mới cho hiệp định là Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương - CPTPP), những tác động, cùng với các cơ hội, thách thức khi Việt Nam gia nhập Hiệp định CPTPP cũng là cơ hội và thách thức đối với tổ chức công đoàn Việt Nam. Việc nâng cao năng lực, phải coi trọng và thực hiện tốt chức năng, vai trò đại diện, bảo vệ quyền lợi của người lao động; quan tâm cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao động; góp phần phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa chính là cơ sở quan trọng để chúng ta hội nhập và phát triển. Để làm tốt vai trò của mình, giải pháp đổi mới quan hệ lao động Việt Nam mà các cấp công đoàn và tổ chức công đoàn cần triển khai trong thời gian tới gồm:

Thứ nhất, hoàn thiện, bổ sung hệ thống pháp luật tương thích với những cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia. Nghiên cứu sửa đổi Điều lệ Công đoàn Việt Nam và tham gia sửa đổi pháp luật lao động và công đoàn theo hướng: xác định rõ nội dung trọng tâm theo thứ tự ưu tiên của các cấp công đoàn, tập trung thực hiện những nhiệm vụ về quan hệ lao động, giảm hoặc lược bớt các nhiệm vụ khác thuộc lĩnh vực chính trị - xã hội, ít hoặc không liên quan đến quan hệ lao động. Cấp công đoàn cơ sở tập trung thực hiện những nhiệm vụ liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động và thực hiện nhiệm vụ chăm lo, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của người lao động; tiếp tục tham gia xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật lao động, trong đó cần xác định rõ các hành vi phân biệt đối xử về quyền công đoàn và thao túng, can thiệp chống công đoàn của người sử dụng lao động…

Thứ hai, tăng cường mối quan hệ lao động hài hòa và hiệu quả. Nhiều nghiên cứu cho thấy, các cuộc đình công tại Việt Nam thường diễn ra ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - FDI nên nếu để tình trạng này xảy ra sẽ ảnh hưởng đến môi trường đầu tư tại Việt Nam. Điều quan trọng nhất là tạo cơ chế đối thoại hiệu quả giữa chủ sử dụng lao động với người lao động. Do đó, cần phải nâng cao năng lực, vai trò vị thế của người lao động để có được mối quan hệ lao động hài hòa thông qua việc hỗ trợ đào tạo về chuyên môn, kiến thức về pháp luật lao động, chính sách về tiền lương, bảo hiểm… Do đó, để tham gia có hiệu quả vào CPTPP thì người lao động sẽ được tự do thành lập tổ chức của mình trong doanh nghiệp và có thể tự do lựa chọn hoặc gia nhập Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam hoặc có thể tự chủ cho tổ chức của mình. Đây là vấn đề “nhạy cảm” mà các tổ chức công đoàn cần phải đặc biệt quan tâm để có giải pháp phù hợp.

Ba là, cần xem xét sửa đổi, bổ sung các quy định về giải quyết tranh chấp lao động và đình công trong Bộ luật Lao động và các luật khác có liên quan. Có chế tài đủ mạnh xử lý các vi phạm về pháp luật lao động và công đoàn, đặc biệt là những vi phạm về đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp…

Bốn là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn thực hiện pháp luật lao động, cần chú ý tới tính khác biệt, đặc thù giữa các loại đối tượng lao động của từng loại hình cơ sở trong các thành phần kinh tế và trình độ, tâm lý, tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp để lựa chọn nội dung, phương pháp tuyên truyền, phổ biến cho phù hợp với đối tượng.

Đánh giá

X
(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)