Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên cho biết, Tổng điều tra dinh dưỡng lần này có quy mô lớn nhất từ trước đến nay ở phạm vi quốc gia với sự tham gia của 22.400 hộ gia đình tại 25 tỉnh thành phố đại diện cho 6 vùng sinh thái; thực hiện thu thập đồng thời các chỉ số về nhân trắc, vi chất dinh dưỡng, khẩu phẩn ăn cá thể, cũng như thông tin về an ninh lương thực và kiến thức - thực hành về an toàn thực phẩm”. Đánh giá chung về vai trò quan trọng những kết quả của Tổng điều tra dinh dưỡng toàn quốc 2019-2020, GS.TS Lê Danh Tuyên - Viện trưởng Viện Dinh dưỡng quốc gia đã khẳng định: đây cuộc Tổng điều tra dinh dưỡng toàn quốc có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá các mục tiêu của Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2011-2020 và đưa ra các bằng chứng khoa học nhằm phục vụ cho việc soạn thảo Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng trong giai đoạn tiếp theo.
Một số kết quả chính của cuộc Tổng điều tra:
Khẩu phần ăn của người dân
Năng lượng trung bình trong khẩu phần ăn đạt 2.023 kcal/người/ngày, tăng nhẹ so với mức năng lượng 1.925 kcal/ người/ngày năm 2010. Cơ cấu sinh năng lượng từ Protein, Lipid, và Glucid (2020) là: 15,8%; 20,2%; 64,0% (% so với tổng năng lượng ăn vào). Cơ cấu này được coi là cân đối theo khuyến nghị cho người Việt Nam.
Mức ăn rau quả của người dân đã tăng bình quân đầu người từ 190,4 g rau/người/ngày lên; 60,9 g quả chín/người/ngày lên thành 231,0 g rau/người/ngày; 140,7 g quả chín/người/ngày. Mức tiêu thụ rau quả mới chỉ đạt khoảng 66,4-77,4% so với nhu cầu khuyến nghị của Tháp dinh dưỡng cho người trưởng thành.
Mức tiêu thụ thịt tăng nhanh; từ 84,0 g/người/ngày lên 136,4 g/người/ngày; khu vực thành phố tiêu thụ cao hơn, ở mức 155,3 g/người/ngày. Mức tiêu thụ gạo có xu hướng giảm. Tại các trường học ở thành phố có xu hướng tăng tiêu thụ các loại nước ngọt và thức ăn nhanh.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi và chiều cao trung bình
Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi (chiều cao/tuổi) ở trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn quốc là 19,6% - mức <20%, được xếp vào mức “Trung bình” theo phân loại của Tổ chức Y tế thế giới. Như vậy, tiếp nối kỳ tích giảm suy dinh dưỡng thể nhẹ cân ở trẻ em <5 tuổi xuống còn 19,9% vào năm 2008 (tức là Việt Nam đã về đích trước 7 năm so với chỉ tiêu mà Mục tiêu thiên niên kỷ - MDGs đặt ra đến năm 2015), thì đến nay Việt Nam đang trên đà đạt được Mục tiêu dinh dưỡng toàn cầu (giảm 40% trẻ em thấp còi đến năm 2025). Tuy nhiên, vẫn còn sự chênh lệch giữa các vùng miền về tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi (ở các vùng nông thôn và miền núi tỷ lệ này còn ở mức cao).
Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em tuổi học đường (5-19 tuổi) còn ở mức 14,8% (năm 2010 tỷ lệ này là 23,4%). Rất đáng lưu ý là tỷ lệ thừa cân, béo phì tăng từ 8,5 lên 19,0%, trong đó tỷ lệ thừa cân béo phì khu vực thành thị là 26,8%, nông thôn là 18,3% và miền núi là 6,9%.
Đã có sự thay đổi mạnh ở nhóm thanh niên nam 18 tuổi, đạt 168,1 cm (tăng 3,7 cm so với năm 2010), nữ đạt 156,2 cm (tăng 1,4 cm so với năm 2010).
Tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng
Đã có sự cải thiện rõ rệt, tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng và thiếu máu đã ở mức nhẹ về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng (riêng phụ nữ có thai tỷ lệ thiếu máu ở mức trung bình). Giảm tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng ở trẻ em 6-59 tháng. Nhưng tình trạng thiếu kẽm vẫn còn cao, nhất là ở đối tượng có nguy cơ cao (trẻ em bà mẹ...).
Thiếu kẽm: trên toàn quốc, tỷ lệ thiếu kẽm ở trẻ em 6-59 tháng tuổi giảm xuống 58,0%, ở phụ nữ có thai giảm xuống 63,5%. Tỷ lệ này vẫn còn rất cao đối với trẻ em 6-59 tháng tuổi ở miền núi phía Bắc (67,7%) và Tây Nguyên (66,6%) và còn cao hơn ở đối tượng phụ nữ có thai ở miền núi phía Bắc (81,9%) và Tây Nguyên (63,9%). Đặc biệt, ở khu vực thành phố 5 năm qua (2015-2020), tỷ lệ thiếu kẽm ở trẻ em 6-59 tháng tuổi ở mức 49,6% và hầu như không cải thiện. Điều này cho thấy, tỷ lệ thiếu vi chất dinh dưỡng mức nặng về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng có thể giảm xuống song song với mức cải thiện điều kiện kinh tế xã hội (khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên), nhưng nếu không có các can thiệp đặc hiệu thì khó có thể giảm tiếp xuống mức trung bình (như ví dụ ở khu vực thành phố).
Thiếu Vitamin A: tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng ở nhóm trẻ 6-59 tháng tuổi trên cả nước giảm xuống ở mức nhẹ (9,5%), tỷ lệ này vẫn cao nhất ở khu vực miền núi phía Bắc (13,8%) và Tây nguyên (11,0%). Tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng ở trẻ em 5-9 tuổi (4,9%) ở mức nhẹ theo đánh giá của Tổ chức Y tế thế giới. Can thiệp uống viên nang vitamin A liều cao đã được triển khai nhiều thập kỷ qua nhưng tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng ở trẻ em 6-59 tháng tuổi vẫn còn ở mức nhẹ và giảm chậm trong những năm gần đây. Điều này cho thấy cần có can thiệp hỗ trợ mang tính trung hạn và dài hạn để duy trì thành tích đã đạt được và thanh toán tình trạng thiếu vitamin A tiền lâm sàng. Tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng ở trẻ em có thể nặng thêm nếu dừng hoàn toàn chương trình uống vitamin A liều cao trên toàn quốc.
Thiếu máu: tỷ lệ thiếu máu ở nhóm trẻ 6-59 tháng trên cả nước giảm xuống ở mức nhẹ 19,6%, tỷ lệ này vẫn cao nhất ở miền núi phía bắc (23,4%) và Tây Nguyên (26,3%); tỷ lệ thiếu máu ở trẻ em 5-9 tuổi (9,2%); ở trẻ em 10-14 tuổi (8,4%), đều ở mức nhẹ theo đánh giá của Tổ chức Y tế thế giới.
Tỷ lệ bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu
Có sự cải thiện đáng kể, tăng từ 19,6 lên 45,4%; trong đó ở khu vực thành thị tỷ lệ này là 55,7%, nông thôn là 40,3% và nông thôn miền núi là 42,7%.
Kiến thức, thực hành về an toàn thực phẩm
Tỷ lệ người dân có hiểu biết và thực hành đúng về an toàn thực phẩm có cải thiện rõ rệt: 35,8% số người trả lời có kiến thức tốt, 55,6% có kiến thức trung bình và chỉ 8,6% có kiến thức kém. Về xử lý ngộ độc thực phẩm: 78,0% số người trả lời lựa chọn đưa người bệnh đến cơ sở y tế để điều trị so với 44,9% năm 2010. Tỷ lệ người dân được tiếp cận với nguồn thông tin chính thống về an toàn thực phẩm cũng tăng gấp hai lần so với điều tra năm 2010.
Quỳnh Chi