Cục trưởng Cục SHTT Đinh Hữu Phí
Tạp chí KH&CN Việt Nam: SHTT thực sự đóng vai trò động lực thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo để phát triển tài sản giá trị quốc gia về cả số lượng và giá trị, ông có thể cho biết thêm về vấn đề này?
Ông ĐHP: Trong thời đại KH&CN phát triển như vũ bão hiện nay, các quốc gia đều thừa nhận SHTT là sản phẩm, đồng thời là một trong các công cụ đắc lực thúc đẩy sự phát triển của KH&CN và kinh tế thị trường. Bảo hộ quyền SHTT của các tổ chức, cá nhân nhằm mục đích khuyến khích hoạt động đổi mới sáng tạo, bảo đảm việc phổ biến tiến bộ KH&CN, văn hóa nghệ thuật vào mục đích phát triển xã hội. Ở đây, các đối tượng sáng tạo kỹ thuật là nhân tố quyết định trình độ công nghệ, do đó quyết định trình độ phát triển và cạnh tranh của cả một nền kinh tế. Trong những đối tượng đó, các sáng chế được coi là tiêu biểu. Tương tự như các đối tượng sáng tạo kỹ thuật, các dấu hiệu thương mại (nhãn hiệu, tên thương mại, kiểu dáng sản phẩm…) cũng đóng vai trò quyết định trong việc tạo dựng vị trí cạnh tranh và muốn bảo hộ, cải thiện lợi thế trên thị trường, mọi doanh nghiệp bắt buộc phải chăm lo đến các sản phẩm vốn là đại diện cho lợi thế đó.
Chính vì vậy, vai trò quan trọng của hệ thống bảo hộ SHTT chính là thiết lập một cơ chế cân bằng lợi ích giữa người nắm giữ quyền SHTT và xã hội, trong đó bất kỳ một hành vi nào xâm phạm đến quyền SHTT của chủ thể cũng bị ngăn chặn và xử lý. Vì vậy, bất kỳ một nền kinh tế thị trường nào mà không có hệ thống SHTT thì hầu như đều bị rơi vào tình trạng cạnh tranh hỗn loạn, thiếu lành mạnh và không có năng lực công nghệ nội sinh. Hơn nữa, với cơ chế xác lập, quản lý quyền SHTT theo trình tự do pháp luật quy định tạo ra hệ thống các dữ liệu kỹ thuật, kinh tế, pháp lý đầy đủ, phản ánh tình hình đổi mới của công nghệ, cập nhật các thông tin về tình hình kinh doanh..., các kho dữ liệu đó vô cùng bổ ích cho nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh.
Những năm qua, nhận thức được tầm quan trọng này, Cục SHTT (Bộ KH&CN) và các cơ quan chức năng đã và đang tập trung hoàn thiện hệ thống các quy định về SHTT, góp phần thúc đẩy gia tăng số lượng, chất lượng các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Đây cũng chính là kỳ vọng được Chính phủ, Bộ KH&CN gửi gắm trong Quyết định phê duyệt Chiến lược SHTT quốc gia đến năm 2030 (Quyết định số 1068/QĐ-TTg ngày 22/8/2019) với mục tiêu quan trọng là đưa Việt Nam thuộc nhóm các nước dẫn đầu ASEAN về trình độ sáng tạo, bảo hộ và khai thác quyền SHTT. Một trong những điểm trọng yếu của Chiến lược là hình thành mạnh mẽ tài sản trí tuệ (TSTT) mới của cá nhân, tổ chức Việt Nam gia tăng cả về số lượng và chất lượng, cải thiện vượt bậc các chỉ số về SHTT của Việt Nam trong chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII): số lượng đơn đăng ký sáng chế và văn bằng bảo hộ sáng chế tăng trung bình 16-18%/năm; số lượng đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp tăng trung bình 6-8%/năm; số lượng đơn đăng ký nhãn hiệu tăng trung bình 8-10%/năm; số lượng đơn đăng ký bảo hộ giống cây trồng tăng trung bình 12-14%/năm, đưa Việt Nam trở thành trung tâm bảo hộ giống cây trồng với việc hình thành cơ quan bảo hộ giống cây trồng khu vực ASEAN+.
Tạp chí KH&CN Việt Nam: Năm 2020, Ngày SHTT thế giới hướng tới việc đổi mới sáng tạo vì tương lai xanh. Đây là một khởi đầu cho “lộ trình xanh” hướng tới chú trọng vấn đề bảo vệ môi trường. Xin ông chia sẻ các chính sách, giải pháp mà Cục đã và đang thực hiện để hỗ trợ các nhà sáng chế trong việc góp phần tạo ra một “tương lai xanh”, thúc đẩy “nền kinh tế xanh”?
Ngày SHTT thế giới 2020 hướng đến “Đổi mới sáng tạo vì một tương lai xanh”
Ông ĐHP: Như tôi đã nêu ở trên, để phát huy hơn nữa vai trò của SHTT đối với phát triển kinh tế, mới đây Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược SHTT đến năm 2030 với kỳ vọng Việt Nam sẽ có những bước tiến vượt bậc, tạo động lực thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo, phổ biến và hơn thế nữa có thể thương mại hóa sản phẩm sáng tạo, qua đó làm giàu TSTT - một nguồn tài nguyên tạo nên nội lực quốc gia phục vụ trực tiếp cho sự phát triển bền vững, tạo dựng một “tương lai xanh” cho các thế hệ sau.
Nhiều biện pháp đã được Cục triển khai nhằm góp phần khuyến khích, hỗ trợ, thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu, sáng tạo và ứng dụng các thành quả sáng tạo trong KH&CN vào mọi mặt của đời sống và sản xuất như: thực hiện thủ tục đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp; xây dựng, quản lý và tổ chức khai thác cơ sở dữ liệu thông tin về sở hữu công nghiệp nhằm phục vụ cho các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng các thành quả KH&CN vào hoạt động sản xuất kinh doanh; tuyên truyền, phổ biến các kiến thức, pháp luật về SHTT, tư vấn, hỗ trợ cho các tổ chức, cá nhân trong hoạt động tạo lập, đăng ký xác lập quyền, khai thác và bảo vệ TSTT… góp phần không nhỏ vào thúc đẩy mục tiêu phát triển bền vững.
Một số chương trình, dự án hỗ trợ được triển khai rất có hiệu quả thời gian qua như:
- Chương trình phát triển TSTT hiện đang được các địa phương triển khai mạnh mẽ, bên cạnh việc tham gia Chương trình cấp quốc gia thì tất cả 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển TSTT tại địa phương (thông qua đài truyền hình, lớp tập huấn, đào tạo chuyên sâu…). Chương trình đã bảo hộ cho 118 sản phẩm nông nghiệp chủ lực, đặc thù của địa phương, 600 lượt doanh nghiệp được hỗ trợ về SHTT, trong đó có nhiều đơn vị, doanh nghiệp lớn điển hình như Tập đoàn Dệt may Việt Nam, Hiệp hội Da giày túi xách Việt Nam, Tập đoàn DABACO… Chương trình cũng đã hỗ trợ bảo hộ, áp dụng thực tiễn sáng chế cho 51 giải pháp kỹ thuật.
- Dự án mạng lưới các trung tâm hỗ trợ công nghệ và đổi mới sáng tạo (TISC và IP-HUB) để kết nối, thúc đẩy hoạt động SHTT và chuyển giao công nghệ trong các trường đại học, viện nghiên cứu. Dự án đã tổ chức nhiều khóa tập huấn về tra cứu thông tin sáng chế, viết bản mô tả sáng chế cho các thành viên mạng lưới... Hiện có gần 60 viện nghiên cứu, trường đại học trong cả nước đăng ký tham gia mạng lưới để được hỗ trợ trong quá trình đăng ký sáng chế thông qua các hoạt động như: hỗ trợ tiếp cận thông tin sáng chế chất lượng cao; trợ giúp tra cứu thông tin sáng chế; đào tạo tra cứu thông tin sở hữu công nghiệp... Trong số đó, có 12 viện nghiên cứu, trường đại học được lựa chọn để hỗ trợ hoạt động chuyển giao công nghệ trên cơ sở các giải pháp kỹ thuật có giá trị của đơn vị, gắn hoạt động nghiên cứu - triển khai của đơn vị với doanh nghiệp, hình thành đội ngũ chuyên nghiệp về SHTT tại các viện nghiên cứu, trường đại học…
Tạp chí KH&CN Việt Nam: Quản lý, bảo vệ và phát triển TSTT theo hướng bền vững đang được các địa phương chú trọng triển khai, ông có thể chia sẻ một số điển hình về doanh nghiệp, nhà sáng chế cũng như các sản phẩm đã đem lại hiệu quả trong phát triển?
Ông ĐHP: Trong thời gian gần đây, trước những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, các sáng chế ngày càng tập trung vào giải quyết các vấn đề phát sinh từ thực tiễn liên quan đến công nghệ môi trường như: tái chế, làm sạch nước, xử lý khí thải độc hại, bảo toàn năng lượng, hoặc công nghệ xanh theo hướng bảo tồn, phục hồi hệ sinh thái... Có thể kể đến như: Công ty Busadco là doanh nghiệp KH&CN điển hình đã thành công trong khai thác quyền SHTT, trong đó có các sáng chế bảo vệ môi trường, đặc biệt là các giải pháp chống ngập úng, chống ô nhiễm môi trường nước tại tất cả các đô thị; “Thiết bị xử lý khí thải XLKT-HB0005GPCN” của tác giả Hoàng Hữu Bình; “Thiết bị thu hồi và tái chế chất thải nguy hại trong công nghiệp” của tác giả Trần Bá Phước Anh; “Máy xử lý rác đa năng và công nghệ xử lý rác thải HKM” của tác giả Ngô Thái Nguyên... là các sáng chế điển hình liên quan đến công nghệ xử lý khí thải, chất thải công nghiệp độc hại và rác thải đã được áp dụng hiệu quả trên thực tiễn... Tuy nhiên, để Việt Nam có nhiều sáng chế, giải pháp hữu ích hơn cũng như tăng cường bảo hộ quyền SHTT để phục vụ cho phát triển bền vững, cần có sự chung tay chung sức của tất cả các chủ thể, nâng cao nhận thức về vai trò của SHTT trong đổi mới sáng tạo, hình thành văn hóa SHTT trong toàn xã hội. Đồng thời, các chủ thể sáng tạo cần nâng cao hơn nữa năng lực sử dụng công cụ SHTT vào hoạt động nghiên cứu triển khai cũng như kịp thời đăng ký xác lập quyền SHTT đối với các thành quả nghiên cứu của mình. Doanh nghiệp cần phát huy vai trò chủ đạo trong việc tạo ra và khai thác TSTT. Để thu hẹp khoảng cách từ nghiên cứu đến ứng dụng vào thực tiễn, doanh nghiệp cần chủ động và tích cực đồng hành với các trường đại học, viện nghiên cứu để tạo ra những sản phẩm, công nghệ giải quyết các vấn đề thiết thực của Việt Nam, đặc biệt là vấn đề môi trường đảm bảo phát triển bền vững. Ngoài ra, một vấn đề quan trọng nữa là cần tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao ý thức tôn trọng quyền SHTT, khuyến khích người tiêu dùng ủng hộ các sản phẩm và dịch vụ áp dụng công nghệ sạch.
Tạp chí KH&CN Việt Nam: WIPO và nhiều tổ chức quốc tế liên tục truyền thông về các chiến lược đổi mới sáng tạo phục vụ phát triển bền vững. Vậy theo ông, thông điệp này đã được nhận thức đầy đủ, đúng mức trong các cấp, các ngành cũng như cộng đồng xã hội?
Ông ĐHP: Đảng và Nhà nước ta luôn coi đổi mới sáng tạo là công cụ then chốt để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững. Có thể thấy, làn sóng đổi mới sáng tạo đã xuất hiện ở mọi ngành nghề, lĩnh vực, địa phương phục vụ phát triển kinh tế - xã hội song hành với bảo tồn môi trường, tạo động lực phát triển đất nước. Có thể kể đến sự lan tỏa mạnh mẽ tinh thần khởi nghiệp trên khắp cả nước giúp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Bên cạnh ghi nhận những chuyển biến tích cực ban đầu, chúng ta cũng phải thẳng thắn nhìn nhận thực tế là vẫn có một số các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và người dân chưa nhận thức đầy đủ về phát triển bền vững. Do đó, hoạt động đổi mới sáng tạo thiên về tăng trưởng nhanh về kinh tế, ổn định về xã hội mà chưa quan tâm tới yếu tố môi trường và chưa đồng đều giữa các vùng, các doanh nghiệp.
Chúng ta cũng cần lưu ý đến cải thiện vấn đề về thể chế, nhân lực, cơ sở hạ tầng đồng bộ. Tăng trưởng bền vững cần liên kết tất cả các nguồn lực, đặc biệt là thúc đẩy sự sáng tạo năng động trong khu vực tư nhân. Chú trọng hơn nữa đến các viện/trường để có những nghiên cứu và công nghệ phù hợp hơn, gia tăng số lượng đơn đăng ký của người Việt Nam so với nước ngoài.
Xin cảm ơn ông!