Luật Năng lượng nguyên tử (Luật số 18/2008/QH12) được Quốc hội Khóa XII thông qua ngày 03/6/2008 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009. Luật này đã được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 37 luật có liên quan đến quy hoạch (Luật số 35/2018/QH14 ngày 20/11/2018) và Luật Phòng thủ dân sự (Luật số 18/2023/QH15 ngày 20/6/2023). Để triển khai thi hành Luật, Chính phủ đã ban hành 09 nghị định, Thủ tướng Chính phủ ban hành 24 quyết định (trong đó có 04 quyết định quy phạm pháp luật) và các bộ ban hành 55 thông tư. Các bộ, cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ban hành nhiều văn bản nhằm triển khai các quy định của Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008 và văn bản hướng dẫn thi hành trong thực tiễn.
Qua hơn 15 năm thi hành, Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008 đã phát huy vai trò to lớn trong việc thúc đẩy ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình và tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động đó. Hành lang pháp lý về năng lượng nguyên tử ngày càng được hoàn thiện theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các ứng dụng kỹ thuật bức xạ, kỹ thuật hạt nhân trong công nghiệp, nông nghiệp, chăm sóc sức khỏe, bảo vệ môi trường và nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội khác; góp phần đáng kể vào sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, tăng cường tiềm lực khoa học - công nghệ, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, đặc biệt tạo cơ sở pháp lý để triển khai dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận trong giai đoạn 2009-2016.

Quản lý, vận hành Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt hiệu quả mang lại nhiều thành tựu to lớn trong phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử ở Việt Nam (nguồn: baolamdong.vn)
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, nhiều quy định của Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008 đã bộc lộ bất cập, hạn chế về yêu cầu quản lý, không đồng bộ với một số luật mới ban hành, chưa đáp ứng yêu cầu nội luật hóa liên quan đến các điều ước quốc tế trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử mà Việt Nam là thành viên, phù hợp với các yêu cầu, tiêu chuẩn mới của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA); phát sinh sự chồng chéo trong chức năng quản lý của một số bộ ngành; một số quy định thiếu tính khả thi; chưa đáp ứng hoặc theo kịp sự phát triển nhanh của khoa học và công nghệ hạt nhân, công nghệ bức xạ; quy định về an toàn, an ninh, thanh sát hạt nhân và quản lý nhà nước đối với các cơ sở hạt nhân (bao gồm nhà máy điện hạt nhân, cơ sở có lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu) còn có bất cập, chưa đầy đủ. Bên canh đó, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Nghị quyết nêu rõ: “Sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực đã được đào tạo về năng lượng hạt nhân đi đôi với đào tạo nâng cao” và “Khẩn trương triển khai các cam kết quốc tế trong việc nghiên cứu ứng dụng năng lượng hạt nhân cho mục đích hoà bình”; Hội nghị Trung ương 10 Khoá XIII đã khẳng định quyết tâm đẩy mạnh 3 đột phá chiến lược, bao gồm phát triển hạ tầng năng lượng, trong đó nghiên cứu phát triển hạ tầng năng lượng hạt nhân; Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Ban hành kèm theo Quyết định số 108/QĐ-TTg ngày 22/01/2021); ngày 30/11/2024 Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 174/2024/QH15 về Kỳ họp lần thứ 8; trong đó Quốc hội quyết nghị “Tiếp tục thực hiện chủ trương đầu tư Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận theo Tờ trình số 811/TTr-CP ngày 25/11/2024 của Chính phủ… Vì vậy, Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008 cần được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung.
Dự thảo Luật Năng lượng nguyên tử sửa đổi được xây dựng với quan điểm: Bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng trong công tác xây dựng pháp luật; thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng về đổi mới mạnh mẽ tư duy xây dựng pháp luật, hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước về năng lượng nguyên tử; thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình (gồm phát triển điện hạt nhân đáp ứng kịp thời xu thế chuyển đổi xanh và mục tiêu NetZero vào năm 2050); bảo đảm an toàn, an ninh và không phổ biến vũ khí hạt nhân; chủ động, sẵn sàng ứng phó, giảm thiểu hậu quả của sự cố bức xạ, sự cố hạt nhân; kế thừa, phát triển những quy định hợp lý, có tính nguyên tắc của Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008; khắc phục triệt để những bất cập, chồng chéo của quy định gây khó khăn, vướng mắc trong quá trình thi hành pháp luật về năng lượng nguyên tử thời gian qua.
Dự thảo Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) gồm 13 chương, 75 điều: Chương I là những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 11); Chương II về phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử (từ Điều 12 đến Điều 15); Chương III về an toàn bức xạ, bảo vệ bức xạ và an ninh nguồn phóng xạ, vật liệu hạt nhân (từ Điều 16 đến Điều 29); Chương IV về an toàn và an ninh cơ sở hạt nhân (bao gồm thiết bị hạt nhân) (từ Điều 30 đến Điều 42); Chương V về thăm dò, khai thác và chế biến khoáng sản phóng xạ (từ Điều 43 đến Điều 44); Chương VI về quản lý chất thải phóng xạ, nguồn phóng xạ đã qua sử dụng và nhiên liệu hạt nhân đã sử dụng (từ Điều 45 đến Điều 49...); Chương VII về thanh sát hạt nhân (từ Điều 50 đến Điều 52); Chương VIII về vận chuyển vật liệu phóng xạ (từ Điều 53 đến Điều 56); Chương IX về kiểm soát xuất nhập khẩu (từ Điều 57 đến Điều 59); Chương X về ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân (từ Điều 60 đến Điều 62); Chương XI về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại hạt nhân (từ Điều 63 đến Điều 65); Chương XII về khai báo, đăng ký và giấy phép (từ Điều 66 đến Điều 72); Chương XIII về điều khoản thi hành (từ Điều 73 đến Điều 75).
Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) tập trung vào 04 chính sách: Chính sách 1: Thúc đẩy sự phát triển và xã hội hóa ứng dụng năng lượng nguyên tử; Chính sách 2: Bảo đảm an toàn bức xạ, an toàn, an ninh hạt nhân và phân cấp trong công tác quản lý nhà nước; Chính sách 3: Tạo thuận lợi cho hoạt động thanh sát hạt nhân; Chính sách 4: Tăng cường quản lý chất thải phóng xạ, nguồn phóng xạ đã qua sử dụng và nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng; chủ đống và sẵn sàng ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân; bảo đảm thực hiện trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại hạt nhân.
CT