Thứ tư, 17/06/2020 17:58

Tài khóa cho phát triển: Vấn đề và khuyến nghị

Ngày 17/6/2020, tại Hà Nội, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) thuộc Trường Đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội) và Viện Friedrich Naumann Foundation (Đức) phối hợp tổ chức Hội thảo công bố Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2020. Báo cáo năm nay có chủ đề “Củng cố điểm tựa tài khóa cho phát triển” nhằm tập trung vào việc xem xét chính sách thuế trong bối cảnh nguồn thu ngân sách suy giảm trong hội nhập quốc tế. Chính vì vậy, những vấn đề về tài khóa là những nội dung xuyên suốt của Báo cáo (4/7 chương đề cập trực tiếp đến nội dung này: đặc điểm của thu ngân sách Việt Nam trong bối cảnh hội nhập; sức ép cạnh tranh thuế trong khối ASEAN; chi qua thuế ở Việt Nam: trường hợp thuế thu nhập doanh nghiệp; trốn và tránh thuế).

Một số vấn đề về tài khóa cho phát triển
Nhóm nghiên cứu của VEPR cho rằng, Việt Nam là một nền kinh tế chuyển đổi và đang có những bước chuyển biến mạnh mẽ về tư duy điều hành nền kinh tế. Nhà nước đã có những cam kết ngày càng chặt chẽ trong việc mở cửa thị trường và phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Trong đó, thuế là một trong những lĩnh vực có nhiều cải cách lớn kể từ sau khi thực hiện đổi mới và mở của nền kinh tế. Nhìn tổng thể, hệ thống thuế hiện tại ở Việt Nam khá tương đồng với các quốc gia có nền kinh tế thị trường lâu đời trên thế giới. Tuy nhiên, xu thế hội nhập quốc tế cũng đang tạo ra những thách thức nhất định đối với hệ thống ngân sách.

Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế mặc dù đã được triển khai mạnh mẽ, tuy nhiên vấn đề minh bạch ngân sách của Việt Nam vẫn còn là một dấu hỏi lớn. Cụ thể, số liệu về ngân sách công bố trong nước và quốc tế còn chưa thống nhất về cấu trúc; việc quản trị ưu đãi thuế/chi qua thuế của Việt Nam chưa phù hợp với thông lệ quốc tế; cấu trúc thuế chưa bền vững, hiệu quả và công bằng; quá trình quyết toán ngân sách còn chậm. Bên cạnh đó, quá trình hội nhập quốc tế cũng đang khiến nhiều khoản thu ngân sách bị giảm mạnh. Tình trạng ưu đãi/chi qua thuế của Việt Nam là tương đối lớn, dàn trải và gây bất bình đẳng giữa các khu vực doanh nghiệp. Đặc biệt, giống như nhiều quốc gia ASEAN khác, Việt Nam đang có xu hướng sử dụng ưu đãi thuế như một công cụ khuyến khích đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài để cạnh tranh, hơn là hợp tác với các nước nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Điều này tạo ra mối quan ngại về sự gia tăng các chi phí tài chính như một tác dụng phụ của ưu đãi thuế.
Bên cạnh đó, Báo cáo cũng cho rằng, trốn và tránh thuế cũng là một vấn nạn khác mà hệ thống thuế Việt Nam đang phải đối mặt trong quá trình hội nhập. Các sai phạm về thuế không chỉ xảy ra với thuế thu nhập doanh nghiệp mà còn ở hàng loạt các sắc thuế khác. Hành vi trốn và tránh thuế có thể xảy ra ở mọi loại hình doanh nghiệp, từ các doanh nghiệp nhà nước đến các công ty đa quốc gia hay công ty tư nhân, và có xu hướng ngày càng gia tăng. Đặc biệt, có nhiều bằng chứng cho thấy hiện tượng trốn và tránh thuế ở các công ty đa quốc gia có thể diễn ra phổ phiến và với mức độ nghiêm trọng hơn các công ty trong nước.
Khuyến nghị
Để hướng tới một hệ thống thuế minh bạch, công bằng và hiệu quả, làm điểm tựa cho sự phát triển bền vững của Việt Nam trong dài hạn, nhóm nghiên cứu của VEPR đã đưa ra một số khuyến nghị chính sách như sau:
Thứ nhất, Việt Nam cần xây dựng một hệ thống ngân sách minh bạch, tuân thủ những chuẩn mực quốc tế trong vấn đề hạch toán, công bố và giám sát ngân sách. Các khoản thu - chi ngân sách cần được hợp nhất và tránh để ngoại bảng. Các khoản thu ngân sách bị hao hụt do miễn giảm thuế cũng nên được bổ sung trong công khai trong ngân sách nhà nước. Đồng thời, Việt Nam cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin nhằm hạn chế vi phạm và đảm bảo tính minh bạch trong công tác quản lý thuế và ngân sách.
Thứ hai, Việt Nam cần tiến hành cải cách hệ thống thuế một cách toàn diện thay vì những thay đổi manh mún. Những cải cách này phải giải quyết được vấn đề bất bình đẳng, phức tạp và thiếu hiệu quả của toàn bộ hệ thống thuế. Các sắc thuế cần được rà soát, đánh giá tác động đối với đời sống kinh tế - xã hội và sửa đổi một cách đồng bộ để hướng tới một hệ thống thuế bền vững.
Thứ ba, Việt Nam cần rà soát và tái cấu trúc hệ thống ưu đãi thuế. Các ưu đãi hào phóng và dư thừa cần phải được loại bỏ, hướng tới môi trường kinh doanh công bằng, tạo điều kiện cho nhiều cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động kinh tế, đóng góp vào quá trình đổi mới sáng tạo, tích lũy tri thức trong nền kinh tế. Đồng thời, Việt Nam cần hợp tác với các quốc gia trong khu vực để hình thành cơ chế chung trong khu vực về ưu đãi thuế, tránh trường hợp các quốc gia trong khu vực chạy đua ưu đãi thuế để thu hút đầu tư dẫn đến phá vỡ cấu trúc thuế tại mỗi quốc gia.
Thứ tư, trong những năm qua Việt Nam đã nỗ lực trong việc hình thành và củng cố hành lang pháp lý về quản lý thuế, tiến gần hơn đến các chuẩn mực quốc tế về gia tăng tính minh bạch và chống trốn, tránh thuế. Tuy nhiên, khung pháp lý hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ, và chưa theo kịp với thực tế diễn biến nhanh và phức tạp. Nghị định 20/2017/NĐ-CP nên được thay thế bằng một nghị định khác với những nội dung phù hợp hơn theo tinh thần của Luật Quản lý thuế 2019 có hiệu lực từ ngày 1/7/2020. Trong giai đoạn tiếp theo, Việt Nam cần nỗ lực nhiều hơn nữa để hoàn thiện hệ thống pháp lý về quản lý thuế và đặc biệt là phải làm cho pháp luật đi vào cuộc sống.
Thứ năm, Việt Nam nên nhanh chóng nghiên cứu và áp dụng các biện pháp chống trốn, tránh thuế hiện đang áp dụng ở các nước tiên tiến trên thế giới, đặc biệt là các quy định trong Chỉ thị chống tránh thuế đang được áp dụng ở các nước thành viên của EU hoặc các biện pháp theo khuyến cáo của các tổ chức quốc tế như Chương trình chống xói mòn cơ sở thuế và dịch chuyển lợi nhuận (BEPS) hay Mạng lưới công bằng thuế toàn cầu... Bên cạnh đó, việc tăng cường công tác thanh kiểm tra, tăng mức xử phạt và nâng cao trình độ chuyên môn của các cán bộ thuế cũng rất cần thiết nhằm đảm bảo việc tuân thủ thuế của các doanh nghiệp.
Thứ sáu, Việt Nam nên triển khai nghiên cứu thực hiện các quy định nhằm chống xói mòn cơ sở thuế và chống vốn mỏng. Để đảm bảo cấu trúc tài chính lành mạnh của các doanh nghiệp và hệ thống ngân hàng trong dài hạn, hành vi vay nợ của các doanh nghiệp, bất kể có giao dịch liên kết hay độc lập, cần được kiểm soát. Quy định giới hạn về vay nợ phải bao phủ được mọi loại hình doanh nghiệp, bất kể thuộc sở hữu nhà nước hay tư nhân, các tập đoàn đa quốc gia hay tập đoàn trong nước, các công ty độc lập hay có giao dịch liên kết... nhằm đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng.
Thứ bảy, bên cạnh tăng cường trao đổi thông tin với các nước khác, Việt Nam cần cải thiện cơ sở dữ liệu phục vụ cho mục đích quản lý thuế thông qua việc yêu cầu tất cả các công ty đa quốc gia lớn hàng năm phải lập báo cáo theo từng quốc gia với dữ liệu tổng hợp về phân bổ thu nhập, lợi nhuận, thuế và các hoạt động kinh tế giữa các khu vực pháp lý thuế mà nó có hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần triển khai thực hiện các quy định quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác được thực hiện bởi nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam. Điều này góp phần tạo môi trường kinh doanh bình đẳng và chống thất thu cho ngân sách nhà nước.
Thứ tám, trong vai trò là Chủ tịch ASEAN trong năm 2020, Việt Nam nên bổ sung các vấn đề về cạnh tranh thuế, ưu đãi thuế, và phòng chống trốn và tránh thuế vào chương trình nghị sự của ASEAN nhằm nâng cao nhận thức và khởi xướng các thảo luận cấp khu vực về các chủ đề này. OECD nhấn mạnh rằng, các hành động đơn phương của từng quốc gia là không đủ hiệu quả trong việc ngăn chặn và hạn chế trốn, tránh thuế của các doanh nghiệp. Do đó, các biện pháp mang tính đồng bộ nhằm tăng cường quy định về thuế cho các quốc gia cần phải được thực hiện.
NVA

Đánh giá

X
(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)