Hạn, mặn diễn biến ngày càng phức tạp
Ông Lê Ngọc Quyền - Giám đốc Đài Khí tượng Thủy văn khu vực Nam Bộ cho biết, đến thời điểm hiện tại, mức độ xâm nhập mặn tại Tiền Giang, Bến Tre đã cao hơn so với năm 2016. Tại Bến Tre ngày 26/03/2024, độ mặn 1‰ đã xâm nhập vào sông Cửa Đại khoảng 69 km; sông Hàm Luông 72 km… Đặc biệt, độ mặn quan trắc được tại trạm Mỹ Tho ngày 12/03/2024 là 6,8‰, cao hơn nhiều so với năm 2016 (3,9‰); các tỉnh: Sóc Trăng, Long An, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau… mặn diễn ra phổ biến cao hơn so với trung bình nhiều năm.
Ông Lê Ngọc Quyền cho biết thêm, xâm nhập mặn mùa khô năm 2023-2024 đến sớm và sâu hơn trung bình nhiều năm. Ngay từ nửa cuối tháng 11/2023, mặn đã bắt đầu xâm nhập vào các sông theo đỉnh triều trong ngày. Từ tháng 12/2023 đến nay, nhiều đợt xâm nhập mặn tiếp tục xảy ra, trong đó đỉnh điểm là tháng 03/2024. Đặc biệt, đợt xâm nhập mặn xuất hiện từ ngày 8-13/03/2024 với ranh mặn 4 vào sâu nội đồng 40-66 km, có nơi sâu hơn.
Đại diện Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam nhận định, mùa khô 2023-2024 xâm nhập mặn ở khu vực ĐBSCL sẽ sâu hơn trung bình nhiều năm và có khả năng đạt đỉnh trong tháng 3. Tuy nhiên, mức độ xâm nhập vẫn thấp và ít gay gắt hơn mùa khô 2015-2016, là năm khô hạn và xâm nhập mặn lịch sử ở khu vực. Tính đến nay, mức độ xâm nhập mặn ở Sóc Trăng, Long An, Trà Vinh, Tiền Giang phổ biến cao hơn trung bình nhiều năm, xấp xỉ so với năm 2016 - một trong những năm hạn, mặn kỷ lục ở ĐBSCL. Riêng tại tỉnh Bến Tre, xâm nhập mặn ở mức xấp xỉ ranh mặn sâu nhất năm 2016, xâm nhập mặn trên sông Cổ Chiên đã sâu hơn ranh mặn sâu nhất năm 2016.
PGS.TS Nguyễn Hiếu Trung - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Cần Thơ cho rằng, diễn biến phức tạp của tình hình hạn, mặn ngoài một số yếu tố tự nhiên nêu trên thì yếu tố con người cũng góp phần không nhỏ gây ra xâm nhập mặn. Việc quản lý và khai thác nguồn tài nguyên nước dưới đất chưa phù hợp, dẫn đến tình trạng sụt lún đồng bằng cũng như tình trạng khai thác cát lòng sông dẫn đến tình trạng hạ thấp đáy sông đã tạo điều kiện thuận lợi cho cho mặn xâm nhập sâu trong nội đồng. Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất không phù hợp cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc đưa nước mặn vào sâu trong nội đồng, làm công tác quản lý thủy lợi của mỗi địa phương gặp nhiều khó khăn. Tính từ cuối năm 2015 đến nay, 13 địa phương thuộc ĐBSCL đều đã bị nhiễm mặn, trong đó đã có 11/13 tỉnh thành công bố tình trạng thiên tai hạn hán, xâm nhập mặn và đã gây ra những hậu quả hết sức nặng nề, ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt, sản xuất của cả vùng ĐBSCL. Tại Hội thảo, các đại biểu đã thảo luận về những diễn biến hạn, mặn khá nghiêm trọng đang tác động tiêu cực đến một số địa phương trong vùng.
Cần có biện pháp chung cho vùng và riêng cho mỗi địa phương
Để giải quyết vấn đề hạn, mặn ở ĐBSCL, PGS.TS Nguyễn Hiếu Trung cho rằng, việc nâng cao nhận thức, thiết kế và triển khai chương trình hành động cụ thể để giải quyết các vấn đề ứng phó với tình trạng hạn mặn cũng như giảm thiểu tác động tiêu cực đang rất cấp bách. Bên cạnh các biện pháp chung ở cấp vùng, mỗi địa phương trong khu vực cần thực hiện những biện pháp riêng phù hợp với điều kiện của mình.
Đồng tình với quan điểm trên, PGS.TS Nguyễn Thị Hồng Điệp - Khoa Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên (Trường Đại học Cần Thơ) cho rằng để hạn chế những thiệt hại do hạn, mặn, chúng ta cần triển khai đồng bộ các giải pháp để thích ứng với hạn mặn. Theo đó, hướng dẫn người dân trữ nước ngọt để phục vụ sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt trong gia đình. Hỗ trợ, chuyển giao kỹ thuật cho người dân canh tác phù hợp với khả năng đáp ứng nguồn nước của từng vùng sinh thái. Chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, vật nuôi, cây trồng phù hợp với từng vùng, nghiên cứu, lai tạo giống cây mới chịu hạn, chịu mặn mang lại giá trị kinh tế cao. Tăng cường quan trắc, giám sát, nâng cao năng lực dự báo mặn. Quản lý, khai thác hệ thống công trình thủy lợi linh hoạt, đáp ứng yêu cầu ngăn mặn, trữ ngọt vừa thực hiện nhiệm vụ tiêu thoát nguồn nước bị ô nhiễm…
Theo PGS.TS Văn Phạm Đăng Trí - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu (Trường Đại học Cần Thơ) cho biết, để phát triển bền vững ĐBSCL, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 120/NQ-CP. Đây có thể xem là định hướng “thuận thiên” cho phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu. Về giải pháp thích ứng, trước tiên, cần đảm bảo nước sạch cho con người bằng cách hoàn thiện hệ thống cấp nước sinh hoạt tập trung, đáp ứng nhu cầu nước sạch tối thiểu hằng ngày. Đối với sản xuất nông nghiệp, cần chuyển đổi để hạn chế tối đa tác động tiêu cực của hạn, mặn. Từng hộ nông dân phải có giải pháp trữ nước ngọt, tưới tiết kiệm, khoa học, tránh lãng phí nguồn nước; đảm bảo hệ thống kênh mương có khả năng trữ ngọt nhằm cung cấp nước tưới cho cây trồng, vật nuôi vào mùa khô. Hệ thống công trình thủy lợi (ngăn mặn) cần hoàn chỉnh, phát huy hiệu quả trong ngăn mặn, giữ ngọt. Đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước về quy hoạch vùng trồng, sản xuất nông nghiệp, đặc biệt vùng rủi ro do hạn, mặn.
Các hệ thống quan trắc, cảnh báo cần đưa ra được dự báo sớm, thông báo rộng rãi tới người dân, địa phương một cách hiệu quả và hữu dụng, đặc biệt vùng dễ bị tổn thương do hạn hán, xâm nhập mặn. Trong tương lai, vùng ĐBSCL cần hoàn thiện, đảm bảo hệ thống dữ liệu về biến động tài nguyên nước được cập nhật, chia sẻ kịp thời, hiệu quả, rộng rãi.
Ngoài ra, cần có sự phối hợp giữa các cấp quản lý với các nhà khoa học, đảm bảo những vấn đề trên được nghiên cứu, giải quyết một cách khoa học, vững chắc, mang lại hiệu quả thiết thực cho người dân vùng ĐBSCL.
Phong Vũ - Minh Đức