Thứ năm, 28/04/2022 10:09

Blockchain và ứng dụng trong đăng ký, xác lập và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ

ThS Phạm Tiến Đạt

Học viện Cảnh sát nhân dân

Tài sản trí tuệ bao gồm ý tưởng, bí quyết, chiến lược, kế hoạch kinh doanh, thương hiệu, kiểu dáng và các nội dung vô hình khác được tạo ra bởi sự sáng tạo, đổi mới… Với xu thế ngày càng phát triển của xã hội, tài sản trí tuệ đang dần trở nên có giá trị hơn so với tài sản hữu hình. Do đó, việc bảo vệ các tài sản trí tuệ này là việc làm vô cùng cần thiết.

Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là điều kiện thiết lập các mối quan hệ thương mại

Quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) là việc hữu hình hóa các giá trị vô hình của cá nhân, tổ chức sở hữu đối với các ý tưởng, sáng tạo khác nhau. Theo Điều 3, Luật SHTT, quyền SHTT bao gồm 3 nhóm: 1) Quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá; 2) Quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý; 3) Quyền đối với giống cây trồng là giống cây trồng và vật liệu nhân giống.

Việc bảo hộ quyền SHTT có ý nghĩa và vai trò quan trọng không chỉ với chủ thể quyền SHTT, người tiêu dùng, người sử dụng, nhà sản xuất, kinh doanh mà còn liên quan đến vấn đề phát triển của mỗi quốc gia. Do đó, nếu việc bảo vệ quyền SHTT được thực hiện có hiệu quả sẽ tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ. Bảo hộ quyền SHTT là nghĩa vụ bắt buộc và điều kiện tiên quyết đối với các quốc gia là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đa số các nước coi việc bảo hộ quyền SHTT là một điều kiện không thể thiếu trong việc thiết lập các mối quan hệ thương mại.

Công nghệ Blockchain

Công nghệ chuỗi khối (Blockchain) được biết đến rộng rãi với sự bùng nổ của các đồng tiền điện tử mà điển hình trong số đó là Bitcoin và Ethereum. Blockchain là một kho lưu trữ, cơ sở dữ liệu phân tán toàn cầu. Theo cách giải thích dễ hiểu nhất, công nghệ chuỗi khối được xem như một cuốn sổ cái mở, dùng để lưu trữ, theo dõi các giao dịch được thực hiện và xác nhận các giao dịch đó trong hệ thống mạng ngang hàng (peer - to - peer), không có một máy chủ tập trung cũng như không có một người nào có quyền kiểm soát cơ sở dữ liệu này. Một khi dữ liệu được ghi vào cuốn sổ cái này, không ai có thể xóa hay thay đổi. Mỗi một giao dịch hay một khối (block) thông tin được tạo ra sẽ được truyền đến tất cả các thành viên trong hệ thống và phải được xác nhận bởi mỗi thành viên thông qua thuật toán phức tạp. Một khi khối được xác nhận thì nó sẽ được thêm vào cuốn sổ cái hoặc chuỗi thông tin.

Có thể ví Blockchain như phát minh mạng Internet lần thứ 2 và tính đến nay, công nghệ này đã trải qua 2 giai đoạn và đang từng bước chuyển sang giai đoạn 3. Ở giai đoạn 1 là công nghệ Blockchain 1.0 (năm 2014) với tiền tệ và thanh toán: ứng dụng chính của phiên bản này là tiền điện tử, tiền mã hóa, bao gồm việc chuyển đổi tiền tệ, tạo lập hệ thống thanh toán kỹ thuật số; đây là lĩnh vực phổ biến với nhiều người mà đôi khi tạo ra sự nhầm lẫn giữa Bitcoin và Blockchain. Giai đoạn 2 là công nghệ Blockchain 2.0 (năm 2017) với tài chính và thị trường: giai đoạn này tập trung mở rộng quy mô công nghệ, đưa vào các ứng dụng như hợp đồng thông minh, giao dịch điện tử… Giai đoạn 3 là công nghệ Blockchain 3.0: đây là thời điểm Blockchain được nâng cấp, phát triển với hàng loạt các ứng dụng trong lĩnh vực điều hành, giám sát, SHTT, ngăn chặn hàng giả, giải trí, giáo dục, web thế hệ thứ 3.

Các giai đoạn phát triển của Blockchain.

Những ưu điểm mà công nghệ chuỗi khối Blockchain mang lại có thể kể đến: 1) Đây là công nghệ lưu trữ dữ liệu hiện đại, loại bỏ vai trò của bên trung gian thứ 3, giúp tiết kiệm thời gian, tiền bạc; 2) Có tính minh bạch và bảo mật cực kỳ cao, cho phép mọi người đều có thể biết các thông tin giao dịch của nhau, nhưng vẫn đảm bảo bí mật tuyệt đối các dữ liệu riêng tư của mỗi cá nhân; 3) Không thể bị chỉnh sửa, phá hủy; 4) Có khả năng ứng dụng vào rất nhiều lĩnh vực trong đời sống không chỉ riêng về tài chính, ngân hàng. Chính vì những ưu điểm đó mà công nghệ Blockchain được xem là chìa khóa trong công cuộc chuyển đổi số và xây dựng nền tảng công nghệ thông tin tương lai.

Nhiều quốc gia trên thế giới đang nhanh chóng nắm bắt công nghệ, đưa Blockchain tiếp cận đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Tại Việt Nam, nhằm thúc đẩy, khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng công nghệ Blockchain vào các lĩnh vực kinh tế, ngày 23/4/2018, Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VECOM) đã thành lập Chi hội Blockchain; ngày 23/3/2020, Bộ Tư pháp có Báo cáo số 70/BC-BTP trình Thủ tướng Chính phủ về việc rà soát khung khổ pháp lý liên quan việc ứng dụng, phát triển các sản phẩm, dịch vụ được phát triển trên nền tảng công nghệ Blockchain và đề xuất một số định hướng để xây dựng, hoàn thiện chính sách và khung pháp lý cho các sản phẩm, dịch vụ được phát triển trên nền tảng công nghệ Blockchain; ngày 19/4/2021, Sở Thông tin và Truyền thông thành phố Đà Nẵng phối hợp với Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán tổ chức Hội thảo “Xu hướng ứng dụng công nghệ Blockchain cho cơ quan nhà nước và doanh nghiệp” và ký kết bản ghi nhớ hợp tác với Viện Nghiên cứu cao cấp về Toán về chuyển đổi số giai đoạn 2021-2025…

Đăng ký, xác lập và bảo hộ quyền SHTT dựa trên công nghệ Blockchain

Công nghệ Blockchain tạo ra chuỗi thông tin được đảm bảo an toàn, ghi nhận minh bạch thời điểm giao dịch và không thể bị thay đổi. Điều này phù hợp với các ứng dụng trong hoạt động bảo hộ, thực thi quyền SHTT. Với khả năng chia sẻ thông tin dữ liệu minh bạch, tiết kiệm không gian lưu trữ và bảo mật cao, công nghệ Blockchain đem đến nhiều kỳ vọng trong việc bảo hộ quyền SHTT, đóng vai trò quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Công nghệ Blockchain đem lại nhiều khả năng ứng dụng trong đăng ký, xác lập và bảo hộ đối với quyền SHTT.

Blockchain và quyền SHTT.

Trong đăng ký, xác lập quyền SHTT, cuốn sổ cái Blockchain sẽ cho biết chủ thể quyền SHTT có những quyền gì và phạm vi sử dụng các quyền đó. Điều này đặc biệt có giá trị trong các trường hợp pháp lý có yêu cầu chứng minh hành vi sử dụng lần đầu tiên, sử dụng thực tế, hoặc cần xác định phạm vi sử dụng điển hình trong các vụ tranh chấp hay các thủ tục pháp lý khác. Ví dụ, thu thập thông tin về việc sử dụng nhãn hiệu trong thương mại từ đăng bạ nhãn hiệu chính thức, dựa trên công nghệ Blockchain sẽ cho phép cơ quan SHTT có liên quan nắm được thông tin thực tế gần như ngay lập tức.

Tiềm năng mà công nghệ Blockchain được sử dụng để quản lý các quyền SHTT là rất lớn. Việc lưu trữ thông tin, dữ liệu SHTT vào sổ cái phân tán thay vì việc lưu trữ trong cơ sở dữ liệu truyền thống có thể biến các quyền này trở thành “quyền SHTT thông minh”. Bên cạnh đó là việc sử dụng công nghệ sổ cái phân tán để tạo ra “các đăng bạ quyền SHTT thông minh” dưới dạng một giải pháp tập trung hóa được vận hành bởi cơ quan SHTT. Những thông tin được lưu trữ gồm: thời điểm nhãn hiệu lần đầu tiên được nộp đơn đăng ký; thời điểm cấp văn bằng; thời điểm sử dụng lần đầu tiên trong thương mại; thời điểm nhãn hiệu, sáng chế, giấy phép về kiểu dáng công nghiệp… sẽ giải quyết các vấn đề phát sinh trong trường hợp cần đối chiếu, lưu trữ và cung cấp bằng chứng.

Trong bảo hộ quyền SHTT, công nghệ Blockchain cũng có thể đóng vai trò quan trọng đối với các quyền SHTT mà không cần thủ tục đăng ký xác lập quyền như quyền tác giả (theo pháp luật nhiều nước và theo các điều khoản của Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật) và các quyền về kiểu dáng không phải đăng ký, vì công nghệ này có thể cung cấp các bằng chứng về ý tưởng, sử dụng, các yêu cầu được xác nhận (như tính nguyên gốc và ở nhiều nước có quy định về kiểu dáng lần đầu được đưa ra thị trường) và quy chế pháp lý. Khi đăng tải tác phẩm hoặc thiết kế nguyên gốc và các thông tin chi tiết về tác giả lên hệ thống Blockchain thì đồng thời hệ thống cũng ghi chép thời gian khởi tạo, từ đó tạo ra bằng chứng xác thực chứng minh quyền tác giả đối với tác phẩm. Kho thông tin dành cho các quyền SHTT không cần thủ tục đăng ký được xây dựng trên cơ sở công nghệ Blockchain đang được một số doanh nghiệp khởi nghiệp phát triển và có thể trở thành giải pháp hữu ích và dễ quản lý cho công tác bảo hộ quyền tác giả cũng như quản lý bản quyền nội dung số.

Một khái niệm thường xuyên được nhắc đến cùng với công nghệ Blockchain đó là các “hợp đồng thông minh”. Vì một số giải pháp công nghệ Blockchain có thể chứa đựng, thực hiện và giám sát giao dịch bằng ngôn ngữ mã hóa, nên “cách thức thực hiện hợp đồng thông minh” như vậy có thể hữu ích cho hoạt động quản lý bản quyền nội dung số và các loại giao dịch SHTT khác. Hợp đồng thông minh có thể được sử dụng để thiết lập và thực thi các thỏa thuận về SHTT như các hợp đồng license và cho phép giao dịch thanh toán theo thời gian thực cho các chủ sở hữu quyền; “thông tin thông minh” về các quyền SHTT được bảo hộ, ví dụ như một bài hát hay hình ảnh được mã hóa dưới dạng kỹ thuật số (dưới định dạng file âm thanh hoặc file ảnh). Những ý tưởng như thế này nhanh chóng tạo thành trào lưu. Từ năm 2021, Hiệp hội Bản quyền Trung Quốc đã khởi động chuỗi bản quyền Trung Quốc và ra mắt hệ thống Blockchain bảo vệ bản quyền kỹ thuật số.

Cuốn sổ cái sẽ cho biết ai là người sở hữu, ai là người nhận license hợp pháp…; từ đó, cho phép tất cả mọi người trong chuỗi cung ứng, kể cả người tiêu dùng hay các cơ quan hải quan đều có thể xác minh được sản phẩm chính hãng và phân biệt chúng với hàng giả. Các sổ cái Blockchain lưu giữ thông tin về quyền SHTT sẽ cung cấp nguồn thông tin xác thực vì chúng có thể ghi lại các chi tiết có thể kiểm chứng một cách khách quan về thời điểm và nơi sản phẩm được tạo ra, chi tiết về quy trình sản xuất và nguồn nguyên, vật liệu. Những giải pháp Blockchain như vậy đang nhanh chóng trở thành xu hướng, cho phép người dùng xác minh nguồn gốc của sản phẩm và đảm bảo độ an toàn, tin tưởng cho các doanh nghiệp, cơ quan hữu quan, người tiêu dùng và các công ty bảo hiểm.

Gắn các mã kết nối thông tin với hệ thống Blockchain có thể quét được tem chống hàng giả hoặc in tem (hiện rõ hoặc in ẩn) lên sản phẩm là một trong số những ứng dụng thuyết phục nhất của công nghệ Blockchain, có thể đóng vai trò quan trọng trong cuộc chiến chống lại hàng giả. Minh bạch thông tin cùng với công nghệ Blockchain cũng cho phép người tiêu dùng cùng tham gia và nâng cao ý thức về các nguy cơ hàng giả, cũng như có khả năng phân biệt sản phẩm mình mua có phải là hàng chính hãng không. Công nghệ Blockchain cũng được sử dụng cùng với các nhãn hiệu chứng nhận để chứng thực sản phẩm đáp ứng theo đúng tiêu chuẩn hoặc tiêu chí nhất định đã được đặt ra.

*

*               *

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp 4.0, công nghệ Blockchain được xem là chìa khóa cho chuyển đổi số và xây dựng nền tảng công nghệ thông tin tương lai. Với khả năng chia sẻ thông tin dữ liệu minh bạch, tiết kiệm không gian lưu trữ và bảo mật cao, công nghệ Blockchain đang nhận được sự quan tâm của nhiều chính phủ và tổ chức SHTT. Để có thể sớm đưa những ứng dụng của Blockchain vào SHTT, các chính phủ cần khuyến khích nghiên cứu ứng dụng công nghệ Blockchain; xây dựng, hoàn thiện thể chế tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện cho việc triển khai, phát triển công nghệ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hiệp hội chống hàng giả và bảo vệ quyền SHTT của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (2010), Sổ tay thực thi quyền sở hữu trí tuệ.

2. Bộ Khoa học và Công nghệ (2020), Báo cáo thường niên hoạt động sở hữu trí tuệ năm 2020, Nhà Xuất Bản Thanh Niên.

3. P.K. Sharma, J. H. Park (2018), ‘‘Blockchain based hybrid network architecture for the smart city’’, Future Gener. Comput. Syst., 86, pp.650-655.

4. R. Guo, H. Shi, Q. Zhao, D. Zheng (2018), ‘‘Secure attribute-based signature scheme with multiple authorities for Blockchain in electronic health records systems”, IEEE Access, 6, pp.11676-11686.

 

 

 

 

Đánh giá

X
(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)