Giải pháp đối với hệ thống pháp lý
Thứ nhất, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế: để khu vực tư nhân phát triển đòi hòi các chính sách kinh tế vĩ mô cần được xây dựng một cách đồng bộ, tạo điều kiện phát triển một cách hài hòa giữa các khu vực trong nền kinh tế. Các cơ quan nhà nước cần tiếp tục rà soát các văn bản dưới luật như quy định, thông tư, hướng dẫn… để loại bỏ những quy định mang tính chất chồng chéo. Qua đó, có sự thống nhất trong điều hành các chính sách ở các cơ quan của Nhà nước, đảm bảo các thành phần kinh tế đều được tiếp cận các nguồn lực tài chính như nhau.
Thứ hai, cải cách thủ tục hành chính: Chính phủ cần tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính. Đặc biệt, các thủ tục liên quan đến cấp phép thành lập đăng ký kinh doanh, thủ tục thuê đất, thủ tục cấp tín dụng…
Thứ ba, cải cách chính thuế: các chính thuế cần hướng tới nuôi dưỡng nguồn thu tương lai hỗ trợ các DN, đặc biệt là các DN tư nhân. Ưu đãi thuế đối với các DN mới thành lập, tiếp tục hoàn thiện thủ tục thuế theo hướng theo hướng đơn giản, tạo điều kiện thuận lợi và giảm thời gian nộp thuế và hoàn thuế cho các DN.
Giải pháp đối với các ngân hàng thương mại
Thứ nhất, hoàn thiện cơ sở pháp lý và cơ sở hạ tầng thông tin để làm giảm các chi phí giao dịch, qua đó tạo môi trường bình đẳng hơn giữa các loại hình DN khi tiếp cận các nguồn vốn từ các ngân hàng thương mại (NHTM).
Thứ hai, khuyến khích phát triển hệ thống tài chính phi ngân hàng nhằm nâng cao khả năng đáp ứng tốt hơn nhu cầu vốn của các DN. Qua đó, một mặt nâng cao khả năng cạnh tranh trong khu vực tài chính, một phần giúp giảm sự phụ thuộc của hệ thống tài chính hiện tại vào hệ thống NHTM.
Thứ ba, cần khắc phục tình trạng bất cân xứng thông tin nhằm giúp kết nối DN với các NHTM. Rất nhiều DN không có đủ minh chứng pháp lý cho năng lực tài chính theo yêu cầu của NHTM. Số lớn khác dù có hệ thống báo cáo tài chính để cung cấp cho ngân hàng, song, nội dung bên trong lại bất nhất với hệ thống báo cáo thuế. Đề tài kiến nghị cách khắc phục tình trạng này thông qua việc phát triển mạnh mẽ hơn nữa các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực DN nhỏ và vừa nhằm tăng sự trao đổi thông tin giữa hai khu vực này. Với thanh toán không dùng tiền mặt, các khoản doanh thu, chi phí, thuế, dòng tiền các loại của DN nhỏ và vừa đều thực hiện qua hệ thống thanh toán của ngân hàng. Như vậy, các vấn đề bất nhất trong nội dung của báo cáo tài chính sẽ tự động giảm dần, tính minh bạch tăng dần. Tương tự như thế với các DN nhỏ và vừa mới thành lập, chưa có báo cáo tài chính, các ngân hàng có thể sử dụng nguồn thông tin mới này như một kênh thay thế, bổ sung. Hệ thống báo cáo sao kê tài khoản ngân hàng là đáng tin cậy và có căn cứ pháp lý, hoàn toàn có thể sử dụng để đánh giá năng lực tài chính của DN nhỏ và vừa khi thẩm định đề nghị vay vốn.
Thứ tư, các NHTM có thể giảm các điều kiện về tài sản đảm bảo, xem xét bổ sung danh mục tài sản được chấp nhận làm tài sản đảm bảo, tăng tỷ lệ cho vay so với tài sản đảm bảo. Điều này không có nghĩa là bỏ hoàn toàn điều kiện về tài sản đảm bảo, mà tập trung vào việc tăng tỷ lệ cho vay trên tài sản đảm bảo. Bên cạnh đó, cần thiết phải tiếp tục mở rộng các chương trình bảo lãnh tín dụng theo hướng mỗi chương trình được thiết kế trực tiếp vào nhóm nhu cầu vay của DN nhằm trực tiếp quản trị rủi ro đối với từng loại nhu cầu và thiết kế các sản phẩm bảo lãnh tín dụng tương ứng. Hiệu quả của các chương trình bảo lãnh tín dụng đối với việc cải thiện khả năng tiếp cận vốn của DN đã được chứng minh qua nhiều nghiên cứu thực nghiệm tại nhiều quốc gia.
Thứ năm, đơn giản hóa và cải tiến các thủ tục cho vay. Hiện nay, do những hạn chế của các cán bộ tín dụng hoặc do e sợ trách nhiệm nên mặc dù có chủ trương mở rộng tín dụng cho các DN tư nhân, cũng như các quỹ hỗ trợ các SMEs trong và ngoài nước, tuy nhiên tốc độ giải ngân còn chậm một phần là do thủ tục thụ lý hồ sơ vay còn phức tạp và mất nhiều thời gian. Để giải quyết vấn đề này, trong thời gian tới cần làm tốt hơn công tác truyền thông giúp các DN biết nguồn vốn mà mình có thể tiếp cận được từ các quỹ hỗ trợ DN được giải ngân thông qua các NHTM và các tổ chức tín dụng (TCTD). Đồng thời, các TCTD cần tiếp tục cải tiến quy trình, đơn giản hóa thủ tục cho vay, trong đó có cả quy định và điều kiện cho vay tín chấp, rút ngắn thời gian thụ lý hồ sơ xin vay của DN đặc biệt là với các khoản vay trung và dài hạn của DN. Qua đó giúp DN có thể giảm các chi phí giao dịch cũng như những chi phí phát sinh ngoài chi trả lãi.
Thứ sáu, giảm chi phí tiếp cận nguồn vốn tín dụng. Hiện nay các DN đang tiếp cận với các nguồn vốn vay chính thức với mức lãi suất trung bình được đánh giá là cao và kỳ hạn cho vay chưa hợp lý. Như vậy, các TCTD cần tính toán cân đối các nguồn vốn vay với lãi suất cho vay và kỳ hạn phù hợp hơn đối với các DN, kể cả các nguồn vay ưu đãi. Mở rộng các hình thức thuê mua, cung cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi hơn với các dự án khởi nghiệp khả thi và có khả năng sinh lời tốt.
Giải pháp nâng cao năng lực của chính các DN
Một là, cải thiện năng lực quản lý. Quản trị DN (QTDN) được coi là nội dung quan trọng tác động trực tiếp tới hoạt động tài chính, đầu tư, giúp phân bổ hiệu quả hơn các nguồn lực, thúc đẩy hoạt động của DN và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Chỉ khi DN thực hiện QTDN tốt mới có điều kiện giảm thiểu rủi ro, giảm thiểu các hành vi gian lận tài chính, ngăn ngừa các hành vi giao dịch trục lợi cá nhân (lương, thưởng phải gắn liền với kết quả hoạt động của DN). Mặt khác QTDN tốt sẽ giảm tình trạng thông tin bất cân xứng, nâng cao lòng tin của các nhà đầu tư, vì thế khả năng tiếp cận tín dụng của các DN không chỉ dễ dàng hơn mà còn có thể tiếp cận vốn trên thị trường vốn trong nước hoặc thị trường vốn quốc tế.
Cần xây dựng và áp dụng mô thức quản trị phù hợp với đặc điểm, tính chất và quy mô hoạt động của từng DN. Nếu quy mô Hội đồng quản trị (HĐQT) lớn so với quy mô của DN, có thể gây ra gánh nặng chi phí, khiến quy trình ra quyết định chậm, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của DN.
Coi trọng công tác truyền thông nội bộ ở tất cả các cấp, các phòng/ban để đảm bảo cán bộ và người lao động trong DN có sự hiểu biết về hoạt động QTDN và ý nghĩa của chúng đối với hiệu quả hoạt động của DN, đối với việc tiếp cận tín dụng phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
Đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hiện có, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, đẩy mạnh nghiên cứu và phát triển (R&D) để tăng năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Hai là, cải thiện năng lực kinh doanh. Các DN cần xây dựng được các kế hoạch kinh doanh hàng năm, cũng như xây dựng chiến lược phát triển trong dài hạn. Đồng thời, hàng năm phải đánh giá mức độ hoàn thành kế hoạch đặt ra. Có như vậy, DN mới đánh giá được năng lực hoạt động của mình, qua đó có những điều chỉnh phù hợp cho hoạt động kinh doanh.
Xây dựng cơ sở dữ liệu hoạt động của DN, của thị trường, vận hành bộ phận kiểm soát và kiểm toán nội bộ nhằm đánh giá thực trạng hoạt động kinh doanh của DN. Qua đó, xây dựng các phương án đầu tư và phân bổ các nguồn lực tài chính hiệu quả hơn.
Chú trọng công tác nghiên cứu thị trường và tận dụng các nguồn vốn hỗ trợ của chính phủ và các tổ chức nước ngoài để tiếp cận được các nguồn vốn ưu đãi. Ngoài ra, tham gia các mạng liên kết trong sản xuất và kinh doanh nhằm tận dụng những nguồn lực từ mạng lưới các DN trong ngành.
Ba là, hoàn thiện hệ thống kế toán DN. Một trong những tồn tại hiện nay đối với các DN tư nhân, đó là hầu như chưa chú trọng đến việc xây dựng hệ thống kế toán của DN. Do đó, các DN cũng trở nên khó khăn hơn khi muốn tiếp cận với các nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng vì khó đáp ứng được các giấy tờ minh chứng về tài chính trong yêu cầu của hồ sơ xin vay vốn. Như vậy, các DN cần có nhận thức đúng đắn hơn về việc xây dựng hệ thống kế toán của DN nhằm phục vụ công tác quản trị tài chính và ra quyết định kinh doanh, không như hiện nay chỉ dừng lại ở mức phục vụ báo cáo thuế là chính.
Bốn là, minh bạch trong hoạt động tài chính. Đối với các DN lớn, DN niêm yết, việc minh bạch hoạt động tài chính là yêu cầu bắt buộc. Bên cạnh đó, có DN minh bạch nhưng không kịp thời, chưa đầy đủ; hoặc có DN (đặc biệt DN nhỏ và siêu nhỏ) có cung cấp thông tin, nhưng số liệu hạch toán nội bộ khác; số liệu cung cấp cho cơ quan thuế khác và số liệu cho TCTD khi cần vay vốn khác... sẽ không tạo được mối quan hệ tin cậy với TCTD và chắc chắc sẽ khó khăn khi vay vốn tại các TCTD, nếu có vay được thì phải chịu lãi suất cho vay cao hơn các DN tạo dựng được uy tín với TCTD. Do đó, DN muốn tiếp cận vốn tín dụng, hoặc vay vốn bằng phát hành trái phiếu DN hay gọi vốn góp của các nhà đầu tư trong và ngoài nước thì điều kiện bắt buộc phải minh bạch hoạt động tài chính.
Từng bước áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính (BCTC) quốc tế (IFRS). IFRS là hệ thống tiêu chuẩn kế toán yêu cầu DN có trách nhiệm giải trình đầy đủ về tình hình tài chính DN. Việc áp dụng IFRS sẽ giảm thiểu sự mất cân bằng về thông tin, giúp DN nâng cao giá trị DN cũng như giảm chi phí vốn, tạo điều kiện thu hút nguồn vốn đầu tư dài hạn bền vững với chi phí huy động vốn hợp lý. Ở Việt Nam, hiện nay, các DN đang thực hiện BCTC theo chuẩn mực kế toán Việt Nam (Bộ Tài chính đã xây dựng 26 chuẩn mực kế toán dựa trên cơ sở chuẩn mực IFRS và 38 chuẩn mực kiểm toán), nhưng trên thực tế nhiều chuẩn mực chưa được thực hiện, thậm chí một vài chuẩn mực còn có sự mâu thẫu với IFRS, ảnh hưởng đến niềm tin của nhà đầu tư. Vì thế, Chính phủ đã phê duyệt chiến lược kế toán - kiểm toán đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và thực hiện Nghị quyết 35/2016/NQ-CP về hỗ trợ và phát triển DN đến năm 2020 thì việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về chuẩn mực BCTC của Việt Nam là cấp bách, Bộ Tài chính đã đề xuất lộ trình áp dụng IFRS (giai đoạn 2018 đến 2020: hướng dẫn DN áp dụng IFRS, áp dụng bắt buộc một số tiêu chí trong IFRS, đến năm 2020, trước hết là những DN niêm yết là những đơn vị đầu tiên bắt buộc chuyển đổi từ chuẩn mực kế toán Việt Nam sang IFRS).
Năm là, công bố thông tin. Công bố thông tin là một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng QTDN và minh bạch tài chính. Việc làm này giúp DN tiếp cận tín dụng dễ dàng, nhanh chóng hơn. Việc công bố thông tin phải đảm bảo tính kịp thời, đầy đủ của thông tin công bố và chất lượng thông tin công bố. Các thông tin công bố bao gồm cả thông tin tài chính và thông tin phi tài chính.
TTT