
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng chụp ảnh cùng các đại biểu tại buổi làm việc với Đại học Bách khoa Hà Nội ngày 04/07/2025.
Về một số thành tựu nổi bật, xứng đáng được ghi nhận và khen ngợi
Thứ nhất, Đại học Bách khoa Hà Nội đã xây dựng được các trung tâm xuất sắc về nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Đó là Trung tâm Nghiên cứu liên ngành về công nghệ cao (INCHEM), phát triển các công nghệ tiên tiến về vật liệu, sinh học, robot... Đó là Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế về AI (BKAI), là trung tâm đầu tiên trong hệ thống công lập có năng lực nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo về AI, nhận được tài trợ của các tập đoàn công nghệ lớn.
Thứ hai, Đại học Bách khoa Hà Nội có nhiều thành tích trong nghiên cứu và chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp. Số lượng bài báo quốc tế tăng mạnh, trên 2000 bài/năm, dẫn đầu khối công lập. Hơn 200 sản phẩm, quy trình công nghệ đã được chuyển giao cho doanh nghiệp.
Thứ ba, là đơn vị tiên phong trong việc hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp và chuyển giao công nghệ trong lòng đại học. Vận hành mô hình Bách khoa Innovation Hub để hỗ trợ sinh viên làm satrtup và spin-off từ giảng viên. Hàng chục doanh nghiệp khởi nguồn từ nghiên cứu tại trường đã ra đời, như BK Holdings, BKAV, VietSearch, VnTrack... Nhà trường là một trong số rất ít đại học có mô hình sở hữu doanh nghiệp spin-off hiệu quả, có thu và tái đầu tư trở lại.
Thứ tư, Nhà trường có hợp tác tốt với các doanh nghiệp trong nước và quốc tế, như hợp tác chặt chẽ với các tập đoàn VinGroup, Viettel, Samsung, Honda, Toshiba... Là đại học Việt Nam đầu tiên xây dựng mô hình trường và doanh nghiệp đồng hành phát triển công nghệ, như BK Holdings hợp tác với các doanh nghiệp của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức. Trường được các tổ chức quốc tế như World Bank, DAAD, KOICA... tài trợ các chương trình nâng cao năng lực ĐMST.
Thứ năm, Đại học Bách khoa Hà Nội đã đào tạo được nhiều nhân lực chất lượng cao phục vụ KHCN/ĐMST/CĐS. Hơn 35.000 sinh viên đang theo học, với hàng ngàn sinh viên tốt nghiệp hằng năm phục vụ ngành công nghiệp công nghệ số, năng lượng, môi trường... Đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ công nghệ có định hướng ứng dụng rõ ràng. Triển khai học phần ĐMST, khởi nghiệp, sở hữu trí tuệ cho mọi sinh viên.
Một số tồn tại kéo dài, có tính hệ thống cần được khắc phục
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đã chỉ ra một số tồn tại kéo dài, có tính hệ thống của Đại học Bách khoa Hà Nội như sau:
Thứ nhất, tỷ lệ thương mại hoá kết quả nghiên cứu còn thấp. Mặc dù số lượng đề tài, bài báo quốc tế nhiều, nhưng số hợp đồng chuyển giao công nghệ giá trị lớn rất hạn chế. Doanh thu từ thương mại hoá công nghệ thường chỉ xung quanh 20 tỷ đồng/năm, chiếm 1% doanh thu của Trường, trong khi các đại học nghiên cứu thì con số này phải gấp 5-10 lần. Nguyên nhân chính ở đây là, cơ chế sở hữu trí tuệ còn lúng túng, thiếu lực lượng trung gian để thương mại hoá kết quả nghiên cứu một cách chuyên nghiệp, văn hoá nghiên cứu - công bố mạnh, nhưng nghiên cứu - ứng dụng chưa mạnh, chưa thành thói quen. Kết quả nghiên cứu do Trường/nhóm nghiên cứu tạo ra có khi lại được mang đi làm riêng (làm ăn cá nhân, chuyển giao không qua Trường), thay vì thương mại hoá minh bạch để mang lại doanh thu cho Trường. Nguyên nhân sâu xa là thiếu cơ chế tài chính linh hoat, thiếu quy chế nội bộ rõ ràng về sở hữu trí tuệ, về góp vốn bằng IP, về tỷ lệ ăn chia khi thương mại hoá; cơ chế khuyến khích chưa đủ rõ, đủ mạnh, nên làm riêng thì nhanh hơn, lợi hơn; thiếu đơn vị chuyên nghiệp trong trường để hỗ trợ thương mại hoá, bởi vì chuyển giao công nghệ là công việc phức tạp, cần nhiều kiến thức, kỹ năng mà nhà nghiên cứu không có…
Công thức về chi và tạo ra doanh thu của 3 nhà (nhà nước - viện - doanh nghiệp) là như sau: Nhà nước chi 1 đồng cho viện nghiên cứu thì viện phải tạo ra 0,1-0,2 đồng từ thương mại hoá kết quả nghiên cứu, kết quả nghiên cứu này đến doanh nghiệp thì phải tạo ra 5-10 đồng doanh thu, tương đương 2-4 đồng giá trị gia tăng, tức là 2-4 đồng GDP. Với Đại học Bách khoa Hà Nội, hằng năm nhận khoảng 200 tỷ đồng nghiên cứu, thương mại hoá thu về được khoảng 20 tỷ (10%), là đạt mức thấp, nhưng doanh thu gián tiếp từ các kết quả nghiên cứu thì Trường chưa theo dõi (nếu đạt mức yêu cầu thì phải 2000 tỷ đồng/năm). Đây là các con số định hướng để chúng ta đánh giá hiệu quả các khoản chi cho nghiên cứu phát triển công nghệ, đánh giá về tác động đến nền kinh tế của các khoản chi này.
Mục tiêu của chúng ta là mỗi năm, các kết quả nghiên cứu KHCN, từ khoản chi 25.000 tỷ đồng của Nhà nước, phải đi tới doanh nghiệp, tạo ra sản phẩm và góp phần tạo ra được 250.000 tỷ đồng doanh thu thương mại, tương đương khoảng 100.000 tỷ đồng giá trị gia tăng (chiếm 1% GDP). Nếu Đại học Bách khoa Hà Nội xác định mình một cách rất khiêm tốn là chiếm 1% trong hoạt động KHCN của cả nước thì các kết quả nghiên cứu hằng năm của Trường phải góp phần tạo ra 2.500 tỷ đồng doanh thu mới cho các doanh nghiệp, nếu 2% thì doanh thu là 5.000 tỷ đồng. Bởi vì, nghiên cứu phải hướng tới kết quả cuối cùng là phát triển đất nước, góp phần vào tăng trưởng kinh tế, nhất là khi Đảng và Nhà nước đã xác định Việt Nam phát triển dựa trên KHCN, ĐMST và CĐS. Đại học Bách khoa Hà Nội từ nay phải thực hiện theo dõi các kết quả nghiên cứu đi tiếp vào doanh nghiệp như thế nào. Bởi vì, Bộ KH&CN khi xét duyệt cấp kinh phí nghiên cứu sẽ dựa trên kết quả cuối cùng của nghiên cứu trước đó.
Thứ hai, thiếu chiến lược ưu tiên công nghệ hoặc lĩnh vực mũi nhọn, chưa có các đột phá đặc biệt, các nhóm nghiên cứu hoạt động như các "tiểu vương quốc riêng", cơ chế tài chính bị hành chính hoá, nặng về thủ tục, chưa hướng tới các mục tiêu cần đạt được.
Thứ ba, đổi mới chậm trong một số ngành kỹ thuật truyền thống. Một số lĩnh vực kỹ thuật cốt lõi truyền thống (cơ khí, điện tử...) đang tụt hậu so với các lĩnh vực mới là công nghệ thông tin, công nghệ số, dữ liệu lớn... Tụt hậu về thu hút sinh viên và hợp tác doanh nghiệp. Liên ngành còn rời rạc. Thí dụ, thiếu mô hình kỹ sư cơ khí + dữ liệu + tự động hoá, nên khó tạo ra các giải pháp công nghệ 4.0 hoàn chỉnh.
Thứ tư, cơ chế nhân sự, đánh giá nhà khoa học vẫn còn nặng về bài báo, nhẹ về ứng dụng. Một số giảng viên có kết quả nghiên cứu ứng dụng tốt nhưng không được đánh giá cao vì thiếu bài báo ISI. Không có lộ trình nghề nghiệp rõ ràng cho giảng viên doanh nghiệp, nhà đổi mới, mới chỉ có chuẩn nghề nghiệp về giảng viên nghiên cứu.
Thứ năm, thiếu cơ chế phối hợp cấp nhà nước trong các nhiệm vụ lớn. Đại học Bách khoa Hà Nội có năng lực làm đầu mối dự án công nghệ chiến lược quốc gia, nhưng chưa được giao các nhiệm vụ lớn, liên ngành mang tầm quốc gia đặc biệt, với ngân sách hàng ngàn tỷ đồng.
Để giải quyết những tồn tại kéo dài này thì đầu tiên là thể chế. Thể chế thì cơ bản đã được giải quyết trong Luật KHCN và ĐMST mới được ban hành. Các nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật sẽ nhanh chóng được ban hành trong quý 3 năm nay. Phần còn lại là các quy chế nội bộ của Nhà trường.
Một số định hướng đột phá khuyến nghị cho Đại học Bách khoa Hà Nội
Từ những phân tích nêu trên, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đã đưa ra một số định hướng đột phá nhằm thúc đẩy phát triển hơn nữa Đại học Bách khoa Hà Nội trong thời gian tới.
Thứ nhất, xây dựng Trung tâm Công nghệ nền (Deep-tech Core Lab). Mục tiêu là trở thành “đầu não” quốc gia về công nghệ lõi: MEMS, AI công nghiệp, vật liệu mới, cảm biến, pin hydrogen, tự động hoá... Là nơi ươm tạo công nghệ, mở cửa cho doanh nghiệp, startup và tỉnh/thành phố cùng sử dụng. Chuyển dịch Đại học Bách khoa Hà Nội từ giảng dạy, nghiên cứu sang sáng tạo công nghệ lõi. Thu hút các dự án cấp quốc gia và quốc gia đặc biệt, viện trợ quốc tế, doanh nghiệp lớn. Thu hút các nhà khoa học toàn cầu về giải các bài toán lớn, có tính đột phá chiến lược của Việt Nam.
Thứ hai, thí điểm mô hình giảng viên - doanh nhân công nghệ. Cho phép giảng viên vừa nghiên cứu - giảng dạy vừa vận hành công ty spin-off. Gắn kết đánh giá học thuật với giá trị ĐMST. Nhằm tạo ra đội ngũ nhà khoa học doanh nhân, là trụ cột cho hệ sinh thái ĐMST nội sinh. Chuyển đổi từ văn hoá "điểm số" sang văn hoá tạo ra giá trị thực.
Thứ ba, thiết lập quỹ đầu tư công nghệ nội bộ (Innovation Fund). Mục tiêu là góp vốn vào startup bằng IP của Trường, huy động thêm vốn của tư nhân và của Nhà nước vào đầu tư mạo hiểm cho các công nghệ gốc của Trường. Nhằm tạo dòng vốn quay vòng từ nghiên cứu -> startup -> lợi nhuận -> đầu tư lại, tạo nên tính tự chủ, không lệ thuộc ngân sách nhà nước.
Thứ tư, Đại học Bách khoa Hà Nội trở thành tổng thầu trí tuệ (Intellectual Prime Contractor). Mục tiêu là làm tổng thầu các dự án công nghệ tích hợp cấp quốc gia (như chuyển đổi số công nghiệp, đô thị thông minh, năng lượng, giám sát môi trường,...). Nhà trường không chỉ nghiên cứu mà triển khai toàn trình các giải pháp cho xã hội, tạo doanh thu lớn, nâng vị thế quốc gia.
Thứ năm, thí điểm mô hình hệ sinh thái ĐMST theo ngành. Mục tiêu là đổi mới theo các ngành: năng lượng, AI, vật liệu số, giao thông, y sinh... Mỗi ngành có lab, doanh nghiệp liên minh, startup, sandbox chính sách, nhằm tập trung nguồn lực, tăng tỷ lệ thương mại hoá, hình thành các vùng đổi mới sâu ngay trong lòng đại học. Hệ sinh thái theo ngành thì bao giờ cũng sát thực tế hơn, sâu hơn và dễ làm hơn.
Đại học Bách khoa Hà Nội không chỉ cần làm tốt đào tạo và nghiên cứu, mà phải có bước nhảy vọt, trở thành trung tâm KHCN và ĐMST của quốc gia, nơi hội tụ doanh nghiệp, nhà đầu tư, địa phương và Nhà nước. 5 hướng đột phá trên sẽ đưa Đại học Bách khoa Hà Nội từ đại học nghiên cứu thành đại học chủ lực về ĐMST quốc gia, góp phần đưa Việt Nam vào chuỗi giá trị công nghệ cao toàn cầu.
Ba giải pháp có thể giúp Đại học Bách khoa Hà Nội trở thành đại học ĐMST hàng đầu khu vực và thế giới, vượt qua mô hình truyền thống của phương Tây được được Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng chỉ ra như sau:
Thứ nhất, xây dựng mô hình Tổ hợp đại học công nghệ quốc gia (National Tech-University Complex). Tái định vị Đại học Bách khoa Hà Nội thành một tổ hợp quốc gia về đào tạo - công nghệ - sáng tạo - thí nghiệm chính sách, bao gồm: Đại học kỹ thuật chủ lực, các viện nghiên cứu công nghệ ứng dụng (Applied Research Institutes), quỹ đầu tư công nghệ (Innovation Fund), vùng thử nghiệm công nghệ (Tech-Sandbox Zone), các liên minh công nghiệp (Industry Clusters). Điểm khác biệt ở đây là Đại học Bách khoa Hà Nội không chỉ là một trường đại học, mà là một hệ sinh thái công nghệ. Trường vừa đào tạo, vừa sản xuất công nghệ, vừa thử nghiệm chính sách công nghệ. Định hướng này là khả thi vì Đại học Bách khoa Hà Nội đã có những cái cốt lõi, một đại học mạnh, có viện nghiên cứu, các doanh nghiệp đối tác uy tín. Chỉ cần thêm khung pháp lý sandbox để vận hành linh hoạt.
Thứ hai, cơ chế đại học bảo hộ sáng chế (IP Guardian University). Đại học Bách khoa Hà Nội đi đầu cả nước với cơ chế: giảng viên, sinh viên, kỹ sư ở bất cứ đâu, nếu có sáng chế kỹ thuật công nghệ, đều có thể nhờ trường đăng ký, bảo hộ, định giá và thương mại hoá. Trường trở thành người giám hộ tài sản trí tuệ cho cộng đồng kỹ sư Việt Nam, có thu phí dịch vụ, thu phần trăm khi thương mại hoá thành công. Tức là trường không chỉ quản lý IP nội bộ, mà còn mở rộng dịch vụ IP ra ngoài xã hội, giống như mô hình Technology Licensing Office - TLO (Đại học Standford của Hoa Kỳ) hoặc Yissum (Hebrew University của Israel). Đại học Bách khoa Hà Nội có thể làm được nếu thành lập một văn phòng TLO mạnh, có năng lực định giá, đàm phán IP, hỗ trợ khởi nghiệp công nghệ, vì Đại học Bách khoa Hà Nội đã có nhân lực công nghệ mạnh. Nếu Đại học Bách khoa Hà Nội nhận làm thì Bộ KH&CN, mà cụ thể là Cục Sở hữu trí tuệ sẽ đồng hành hỗ trợ.
Thứ ba, spin-off được bảo lãnh công nghệ bởi nhà trường (Tech-backed Spin-off Guarantee). Đại học Bách khoa Hà Nội lựa chọn các nhóm nghiên cứu, startup sinh viên có tiềm năng, rồi đứng ra bảo lãnh về công nghệ để gọi vốn, tham gia đề án quốc gia, thương thảo với doanh nghiệp. Trường sẽ cấp một loại giấy bảo lãnh công nghệ học thuật xác nhận công nghệ này có nguồn gốc từ Đại học Bách khoa Hà Nội, đã được đánh giá học thuật và thử nghiệm, đủ tiêu chuẩn ứng dụng. Khác với bảo lãnh tài chính, đây là bảo lãnh học thuật và công nghệ. Việc này tăng uy tín cho startup, giảm rủi ro cho nhà đầu tư. Điều này là vô cùng quan trọng để thúc đẩy 2 bên tiến tới hợp tác với nhau.
Mục tiêu tạo ra các Unicorn
Các Unicorn theo định nghĩa quốc tế là các startup có giá trị 1 tỷ $. Việt Nam chúng ta có thêm Mini Unicorn có giá trị 100 triệu $. Nếu đến 2045, Đại học Bách khoa Hà Nội không tạo ra được 3-5 Unicorn và hàng chục Mini Unicorn thì Đại học Bách khoa Hà Nội không thể gọi là một đại học nghiên cứu lớn của quốc gia.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, Đại học Bách khoa Hà Nội nên rà soát lại toàn bộ quy chế nội bộ theo tinh thần Luật KHCN và ĐMST vừa được Quốc hội thông qua. Ban hành các hướng dẫn cụ thể để giảng viên được làm startup, được góp vốn bằng sở hữu trí tuệ, được đánh giá theo đổi mới sáng tạo. Thiết lập hệ thống chỉ tiêu đánh giá mới: mỗi năm, Nhà trường báo cáo số công nghệ chuyển giao, số sản phẩm ra thị trường, tổng doanh thu tạo ra cho doanh nghiệp từ nghiên cứu trong Trường.
Bộ KH&CN sẽ thí điểm giao các nhiệm vụ công nghệ trọng điểm cho Đại học Bách khoa Hà Nội, theo mô hình tổng thầu tích hợp công nghệ. Và Đại học Bách khoa Hà Nội cũng nên chủ động đề xuất các chương trình cụ thể trong quý III/2025.
Chúng ta đang bước vào kỷ nguyên mà công nghệ quyết định năng lực cạnh tranh của quốc gia. Năng lực công nghệ không thể đi vay mượn. Nó phải được kiến tạo từ bên trong - và đại học là nơi khởi nguồn. Do vậy Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng mong các thầy cô nhìn thấy sứ mệnh mới của Đại học Bách khoa Hà Nội. Không phải chỉ là trường học - mà là tổ hợp công nghệ quốc gia. Không phải chỉ là nơi dạy kỹ sư - mà là nơi sản xuất công nghệ. Không chỉ là nơi nghiên cứu - mà là nơi đổi mới sáng tạo ra giá trị thực. Với niềm tin vào đội ngũ trí thức của Đại học Bách khoa Hà Nội, Bộ trưởng tin tưởng Nhà trường sẽ làm được.
CT