Thứ năm, 29/05/2025 17:19

Đẩy mạnh hội nhập quốc tế của các tạp chí khoa học Việt Nam: Góp phần hiện thực hóa Nghị quyết 57

Lê Thị Bắc

Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ

Để hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ, một trong những tiêu chí quan trọng là các sản phẩm của nghiên cứu khoa học (trong đó có các bài báo khoa học) cần phải tuân thủ và được đánh giá theo những chuẩn mực được cộng đồng khoa học trong và ngoài nước công nhận. Hiện nay, các tạp chí khoa học của Việt Nam đạt chuẩn quốc tế (trong cơ sở dữ liệu của Web of Science và Scopus) chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, đòi hỏi cần có các giải pháp thúc đẩy hội nhập quốc tế của các tạp chí này. Thực hiện nhiệm vụ này cũng chính là góp phần thực hiện các nhiệm vụ của Nghị quyết 57.

Số lượng tạp chí khoa học của Việt Nam đạt chuẩn quốc tế còn hạn chế

Hiện nay, số lượng các tạp chí khoa học của Việt Nam đạt chuẩn quốc tế còn rất hạn chế, tính đến tháng 04/2025, Việt Nam có 15 tạp chí trong cơ sở dữ liệu của Web of Science (WoS) và Scopus. Mặc dù phần lớn các tạp chí đã xây dựng được hội đồng biên tập (chiếm 89,5%), nhưng thành viên hội đồng biên tập là các nhà khoa học trong nước vẫn chiếm đa số (gần 2/3). Các tạp chí khoa học hiện nay không kiểm tra sự trùng lặp của bài báo (62,8%)1. Phần lớn các tạp chí khoa học hiện nay không kiểm tra sự trùng lặp của bài báo (62,8%); có 25,7% số các tạp chí khoa học chưa xây dựng website2...

Việc phát triển các tạp chí khoa học trong nước hướng tới đạt chuẩn quốc tế là hết sức cần thiết, thể hiện năng lực, trình độ và mức độ hội nhập của khoa học và công nghệ Việt Nam. Tuy nhiên, điều này đang gặp một số khó khăn, thách thức như: hầu hết các tạp chí khoa học của Việt Nam vẫn hoạt động theo một mô hình chung là thực hiện nhiệm vụ xuất bản các bài báo khoa học thuộc lĩnh vực nghiên cứu, đào tạo của cơ quan chủ quản, tác giả của các bài báo phần lớn cũng là các nhà khoa học thuộc cơ quan chủ quản đó; chưa có sự đổi mới mạnh mẽ của bản thân các tạp chí khoa học để phát triển theo chuẩn mực/thông lệ chung của quốc tế; các tổ chức tài trợ cho nghiên cứu hiện nay thường yêu cầu đầu vào và đầu ra là các bài báo được đăng tải trên các tạp chí thuộc hệ thống ISI hoặc Scopus mà chưa có sự khuyến khích đối với các tạp chí trong nước (dù là có chất lượng); bất cập trong việc đánh giá và quản lý chất lượng các tạp chí khoa học Việt Nam hiện nay.

Đánh giá lạc quan về mức độ hội nhập quốc tế đối với các tạp chí khoa học Việt Nam

Để đánh giá về chất lượng và định hướng hội nhập quốc tế của các tạp chí khoa học Việt Nam, năm 2021-2022, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp, cơ chế, chính sách nâng cao chất lượng các tạp chí khoa học Việt Nam hướng tới chuẩn mực quốc tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ hiện nay”, trong đó điều tra 200 chuyên gia, nhà khoa học đánh giá về một số tiêu chí để khẳng định chất lượng trong nước và định hướng hội nhập quốc tế. Kết quả đánh giá này phù hợp với những tiêu chí chung của một tạp chí chuẩn quốc tế thuộc các cơ sở dữ liệu uy tín của của quốc tế hiện nay như: Web of Science, Scopus. Kết quả cho thấy: 65,5% cho rằng cần có sự thừa nhận (có tên trong các cơ sở dữ liệu uy tín của thế giới); 79,5% cho rằng cần có sự chuyên sâu (phải là tạp chí chuyên ngành); 78,5% cho rằng ngôn ngữ xuất bản phải là tiếng Anh; có sự đa dạng của các tác giả (tác giả ở nước ngoài là chủ yếu) chiếm 66,5%; cần thiết phải công khai quy trình biên tập (89,5%); quy trình biên tập gồm nhiều bước: 1. Tác giả hoặc biên tập viên của tạp chí cần chuẩn định dạng (format) bài báo theo quy định của Tạp chí (99,5%), 2. Sơ duyệt về nội dung, hình thức (tổng biên tập hoặc thành viên hội đồng biên tập) (93,0%), 3. Kiểm tra sự trùng lặp (đạo văn) (95,5%), 4. Gửi phản biện (95,0%)...; cần thiết phải công khai quy trình gửi bài (92,5%); sự đa dạng của hội đồng biên tập (thành viên hội đồng biên tập là những nhà khoa học thuộc nhiều quốc tịch khác nhau) chiếm 82,5%; cần thiết phải công khai lý lịch khoa học của các thành viên hội đồng biên tập (76,0%); tỷ lệ % trùng lặp được chấp nhận ở mức trung bình là 13,6%; bài báo cần được phản biện bởi các chuyên gia (100%); nên phản biện qua Hệ thống/công cụ/phần mềm trực tuyến của tạp chí (70,0%); cần thiết phải đo lường mức độ trích dẫn (96,0%); phải đảm bảo tính thường xuyên (93,5%)…

Kết quả khảo sát 200 chuyên gia, nhà khoa học đánh giá giá về các tạp chí khoa học hiện nay ở mức trung bình khá (2,34) (Bảng 1). Điểm được cho từ 1 đến 5 với các mức đánh giá khác nhau (1 tương đương với mức “Rất tốt”, 2 tương đương với mức “Khá”, 3 tương đương với mức “Trung bình”, 4 tương đương với mức “Kém”, 5 tương đương với mức “Rất kém”).

Bảng 1. Kết quả đánh giá các tạp chí khoa học hiện nay

Tiêu chí đánh giá

Điểm trung bình cho các tiêu chí

Đánh giá và cho điểm chung về chất lượng các tạp chí

2,34

Đánh giá và cho điểm về sự đa dạng của các tác giả (bao gồm cả tác giả trong và ngoài nước

2,49

Đánh giá và cho điểm về quy trình biên tập

2,43

Đánh giá và cho điểm về hội đồng biên tập

2,27

Đánh giá và cho điểm về công tác phản biện

2,48

Đánh giá và cho điểm về website của tạp chí

2,36

Đánh giá và cho điểm về phần mềm trực tuyến hỗ trợ xuất bản

2,73

Đánh giá và cho điểm về mức độ trích dẫn

2,65

Đánh giá và cho điểm về tính thường xuyên (có sự chậm trễ trong xuất bản không)

2,46

Chính sách về tài chính khó áp dụng đối với tạp chí khoa học

Hiện nay, chính sách tài chính đối với các tạp chí khoa học được đề cập với tính chất là chính sách tài chính đối với hệ thống báo chí nói chung, cụ thể là ở 2 văn bản: Nghị định số 18/2014/NĐ-CP ngày 14/03/2014 của Chính phủ quy định về chế độ nhuận bút trong lĩnh vực báo chí, xuất bản; và Thông tư số 18/2021/TT-BTTTT ngày 30/11/2021 của Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật hoạt động báo in, báo điện tử.

Phạm vi điều chỉnh của Nghị định số 18/2014/NĐ-CP ngày 14/03/2014 của Chính phủ quy định về chế độ nhuận bút trong lĩnh vực báo chí nêu rõ: “Nghị định này quy định về chế độ nhuận bút cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm báo chí (gồm báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử), xuất bản phẩm theo quy định tại Khoản 4 Điều 4 Luật xuất bản; thù lao cho người tham gia thực hiện các công việc liên quan đến tác phẩm báo chí, xuất bản phẩm, người sưu tầm tài liệu, cung cấp thông tin phục vụ cho việc sáng tạo tác phẩm báo chí, xuất bản phẩm”. Nghị định này áp dụng đối với tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, nhà báo, phóng viên, biên tập viên, cơ quan báo chí, nhà xuất bản và các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân liên quan đến tác phẩm báo chí, xuất bản phẩm.

Chế độ nhuận bút đã được quy định rõ đối với bài viết nghiên cứu tại điểm 1 của Điều 7 của Nghị định 18 với hệ số tối đa là 30. Tuy nhiên, đối với một công trình nghiên cứu để được công bố trên tạp chí khoa học còn đòi hỏi thù lao, chi phí đối với nhiều bên có liên quan: kiểm tra sự trùng lặp, công biên tập, công cho chuyên gia phản biện, công hiệu đính… nhưng Nghị định 18 chưa đề cập đến.

Năm 2021, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Thông tư số 18/2021/TT-BTTTT ngày 30/11/2021 định mức kinh tế - kỹ thuật hoạt động báo in, báo điện tử. Thông tư này đã ban hành định mức cụ thể cho một số nội dung sau: Công tác xây dựng bản thảo và biên tập bản thảo tác phẩm báo chí; Định mức công tác thiết kế, chế bản báo in; Định mức công tác thiết kế, chế bản, đăng tải báo điện tử; Định mức công tác in các loại ấn phẩm báo in. Như vậy, Thông tư số 18/2021/TT-BTTTT cũng chỉ hướng dẫn định mức kinh tế - kỹ thuật chung cho hệ thống báo chí nói chung, khó, thậm chí không thể áp dụng đối với tạp chí khoa học.

Các tạp chí khoa học cần chủ động nâng cao chất lượng

Để hướng tới hội nhập quốc tế, các tạp chí khoa học cần chủ động định dạng bài báo theo thông lệ quốc tế. Bảo đảm chất lượng và hình thức của một bài báo khoa học đạt tiêu chuẩn quốc tế. Thông thường một bài báo khoa học có cấu trúc như sau: 1. Tiêu đề bài báo (Title); 2. Tóm tắt (Abstract); 3. Giới thiệu (Introduction); 4. Lược sử về nghiên cứu trước đây (Literature review); 5. Phương pháp và số liệu dùng cho nghiên cứu (Methodologies and Data); 6. Kết quả và thảo luận (Results and Discussion); 7. Kết luận (Conclusion); 8. Tài liệu tham khảo (References); 9. Lời cảm ơn (Acknowledgements), nếu có.

Xây dựng và kiện toàn Hội đồng biên tập, Hội đồng tư vấn. Tạp chí cần xây dựng Hội đồng biên tập và Hội đồng tư vấn với các thành viên là các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành thuộc lĩnh vực xuất bản, trong đó phải có hơn 1/3 là các nhà khoa học nước ngoài. Những nhà khoa học này phải có thành tích khoa học (track record) tốt và có uy tín khoa học cao trong cộng đồng khoa học quốc tế.

Cơ chế bình duyệt theo chuẩn quốc tế. Cơ chế bình duyệt là tiêu chuẩn không thể thiếu được cho một tạp chí khoa học. Dù bình duyệt không phải là cơ chế hoàn hảo, nhưng so với các cách làm khác thì đó vẫn là cơ chế tốt nhất. Việc tiếp nhận, duyệt và nhận đăng bài phải được thực hiện và xử lý theo đúng thông lệ quốc tế, trong đó chú trọng yêu cầu phải có phản biện kín (Peer Review) xét duyệt một cách độc lập và khách quan chất lượng các bài báo gửi đến để quyết định nhận hay từ chối đăng bài. Các phản biện kín thường là những chuyên gia đầu ngành, giáo sư uy tín trong nước và trên thế giới. Mỗi bài báo phải được gửi đến ít nhất 2 phản biện.

Dùng tiếng Anh là ngôn ngữ chính. Để tiến tới các tiêu chuẩn của Scopus, không nhất thiết phải đăng tải toàn văn bài báo khoa học bằng tiếng Anh. Tuy nhiên, trong tương lai, các tạp chí nên sử dụng tiếng Anh làm ngôn ngữ chính, riêng phần tóm lược thì viết cả bằng tiếng Việt và tiếng Anh. Tiếng Anh là ngôn ngữ giao tiếp và khoa học quốc tế, do vậy, dùng tiếng Anh làm phương tiện truyền thông khoa học cũng là xu hướng tất yếu. Những nước Bắc Âu và một số nước châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc và mới nhất là Trung Quốc đã sử dụng tiếng Anh trong các tạp chí khoa học của mình.

Xuất bản và phát hành đều đặn. Tạp chí phải được xuất bản và phát hành đều đặn theo đúng tiến độ thời gian đã đề ra, đồng thời phải được phát hành tới nhiều nơi trên thế giới. Tiêu chuẩn này thoạt tiên tưởng như không mấy liên quan đến chất lượng quốc tế của tạp chí, nhưng thực ra rất quan trọng, vì nó thể hiện tính chuyên nghiệp cao của tạp chí và trong thực tế cũng không dễ đạt được tiêu chuẩn này.

Đẩy mạnh chuyển đổi số các tạp chí khoa học. Chuyển đổi số đối với tạp chí khoa học thể hiện trên các phương diện: 1) Chuyển đổi số về quy trình xuất bản: tạp chí khoa học cần xây dựng phần mềm trực tuyến đảm bảo toàn bộ quy trình xuất bản (nhận bài, sơ duyệt, chuyển phản biện, phản biện gửi góp ý, tác giả sửa theo đề nghị của phản biện, chỉnh sửa, hiệu đính… xuất bản) đều được xử lý trên phần mềm này; 2) Website của tạp chí đảm bảo thuận tiện cho độc giả (đơn giản nhưng đầy đủ, thân thiện, truy cập nhanh, dễ tìm kiếm, tương thích với hệ thống tìm kiếm, thống kê phổ biến hiện nay về khoa học; 3) Ứng dụng các công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vào xuất bản: trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, học máy…; 4) Đảm bảo an toàn thông tin.

Một tạp chí uy tín quốc tế (trong cơ sở dữ liệu của WoS và Scopus) phải là những tạp chí mà có các bài báo được trích dẫn cao, bản thân tạp chí được xếp hạng cao. Để đạt được tiêu chuẩn này, đòi hỏi sự nỗ lực một cách bền bỉ của đơn vị với phương châm hành động hướng tới chất lượng. Cũng chính vì vậy, tạp chí khoa học ở Việt Nam hiện nay khó có thể thương mại hóa, phát triển kinh tế báo chí như các tạp chí/báo phổ thông.

 

1Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam (2022), Báo cáo tổng hợp đề tài “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp, cơ chế, chính sách nâng cao chất lượng các tạp chí khoa học Việt Nam hướng tới chuẩn mực quốc tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ hiện nay”.

2Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam (2022), Báo cáo tổng hợp đề tài “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp, cơ chế, chính sách nâng cao chất lượng các tạp chí khoa học Việt Nam hướng tới chuẩn mực quốc tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ hiện nay”.

 

 

Đánh giá

X
(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)