Thời điểm chiến lược để bứt phá
Chi sẻ tại Tọa đàm, TS Nguyễn Quân - Chủ tịch Hội Tự động hóa Việt Nam cho biết, đất nước ta đang đứng trước một giai đoạn có tính bước ngoặt trong tiến trình phát triển. Đây là thời kỳ chuyển mình mạnh mẽ sau hàng loạt định hướng lớn từ Đảng và Chính phủ, đặc biệt là loạt nghị quyết gần đây của Bộ Chính trị, như Nghị quyết 57, Nghị quyết 59 về hội nhập quốc tế, Nghị quyết 66 về cải cách thể chế và Nghị quyết 68 thúc đẩy kinh tế tư nhân. Những quyết sách này thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược, khi xác định khoa học, công nghệ và công nghiệp đổi mới sáng tạo sẽ là trung tâm phát triển kinh tế trong thập kỷ tới.

TS Nguyễn Quân - Chủ tịch Hội Tự động hóa Việt Nam phát biểu tại Tọa đàm.
TS Nguyễn Quân nhấn mạnh, muốn phát triển một nền kinh tế số hiệu quả, không thể tách rời khỏi việc xây dựng một nền công nghiệp hiện đại. Công nghiệp chính là lĩnh vực tạo ra giá trị vật chất nền tảng, đóng vai trò thiết yếu trong gia tăng năng suất lao động và chất lượng tăng trưởng.
Trong khi Chính phủ và xã hội đang từng bước số hóa, thì công nghiệp - đặc biệt là sản xuất - khâu cần nhiều nỗ lực nhất để tích hợp các yếu tố công nghệ mới như tự động hóa, dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo. TS Nguyễn Quân đã chia sẻ thêm về những điểm mới trong Nghị quyết 57 như: Nghị quyết 57 đặt ra các chỉ tiêu đầy kỳ vọng: đến năm 2030, kinh tế số cần chiếm ít nhất 30% GDP và đến 2045 con số này phải đạt 50%. Hiện nay tỷ lệ chỉ ở mức hơn 18%, thì đây là một nhiệm vụ nặng nề nhưng khả thi nếu có quyết tâm chính trị và nguồn lực đúng mức. Nghị quyết 57 cũng đề xuất ngân sách đầu tư cho khoa học, công nghệ cần đạt tối thiểu 3% tổng chi ngân sách và tổng đầu tư toàn xã hội tương đương 2% GDP vào năm 2030 - một bước đi lớn mà các nước phát triển từng phải mất hàng chục năm để thực hiện. Điểm đột phá khác là lần đầu tiên, rủi ro và độ trễ trong nghiên cứu khoa học được chính thức công nhận, mở đường cho cơ chế quỹ nghiên cứu linh hoạt, giảm gánh nặng quản lý tài chính truyền thống. Với Nghị quyết 68, khu vực tư nhân lần đầu được xác định là lực lượng nòng cốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các doanh nghiệp lớn trong nước như các Tập đoàn: FPT, Hòa Phát, VinFast… đang tiên phong trong đầu tư công nghệ và sản phẩm công nghiệp hiện đại.
Dù vậy, còn nhiều rào cản khiến doanh nghiệp e ngại đầu tư vào khoa học và công nghệ. Một ví dụ là cơ chế trích lập quỹ phát triển khoa học hiện tại (tối đa 10% lợi nhuận trước thuế) chưa có tính bắt buộc, thủ tục còn phức tạp. Do đó, nhiều doanh nghiệp lựa chọn đầu tư từ lợi nhuận sau thuế, nhưng điều này khiến họ mất quyền được ưu đãi về thuế.
TS Nguyễn Quân cho rằng, mặc dù pháp luật đã cho phép doanh nghiệp được trích tối đa 10% lợi nhuận trước thuế để hình thành Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ, nhưng trong thực tế, số lượng doanh nghiệp sử dụng hiệu quả nguồn quỹ còn rất hạn chế. Lý do chính đến từ sự phức tạp trong cơ chế quản lý, kiểm tra, giám sát và quyết toán. Doanh nghiệp muốn chi từ quỹ phải lập đề án, thẩm định, báo cáo và chịu thanh kiểm tra như một đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước, dù đây là nguồn vốn tự thân. Không ít doanh nghiệp cảm thấy việc sử dụng quỹ còn rườm rà, khó linh hoạt và thậm chí rủi ro nếu sai quy trình, dẫn tới bị truy thu hoặc xử phạt.
Chính vì vậy, nhiều doanh nghiệp - đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân - đã lựa chọn không sử dụng quỹ, hoặc trích lập cho có hình thức. Một số khác thì chuyển sang đầu tư từ lợi nhuận sau thuế để tránh ràng buộc, nhưng điều này đồng nghĩa với việc họ không được hưởng các ưu đãi thuế đáng ra có thể nhận. TS Nguyễn Quân kiến nghị cần thiết kế lại cơ chế quản lý quỹ theo hướng đơn giản, minh bạch nhưng linh hoạt, tôn trọng quyền tự chủ của doanh nghiệp, đặc biệt là với các hoạt động nghiên cứu có tính thử nghiệm và rủi ro cao. Vì vậy, cần có chính sách phù hợp hơn, đặc biệt là hỗ trợ nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận công nghệ, nâng cao năng lực số và ứng dụng đổi mới sáng tạo.
Kinh tế tư nhân - một động lực quan trọng
TS Lương Minh Huân - Viện trưởng Viện Phát triển Doanh nghiệp nhấn mạnh rằng, để vươn lên trong chuỗi cung ứng toàn cầu, Việt Nam trước hết cần xây dựng được một hệ sinh thái cung ứng nội địa mạnh mẽ. Điều này không chỉ giảm lệ thuộc vào nước ngoài mà còn giúp nâng cao giá trị sản phẩm và vị thế doanh nghiệp Việt. Các doanh nghiệp đầu ngành có vai trò then chốt trong việc dẫn dắt, chia sẻ công nghệ, kinh nghiệm và nguồn lực với các doanh nghiệp vệ tinh, nhất là trong ngành công nghiệp hỗ trợ. Nhà nước cần duy trì vai trò kiến tạo môi trường thuận lợi, đặc biệt về vốn, hạ tầng, đào tạo và kết nối khu vực công - tư. Ngoài ra, các hiệp hội ngành nghề cần tích cực hơn trong việc định hướng, tư vấn và hỗ trợ kỹ thuật cho doanh nghiệp, nhất là trong lĩnh vực công nghệ cao. Hiện nay, tỷ lệ nội địa hóa trong nhiều ngành vẫn còn rất thấp, đặc biệt trong lĩnh vực điện tử, dù có kim ngạch xuất khẩu lớn nhưng tỷ lệ linh kiện do doanh nghiệp trong nước sản xuất mới khoảng 15%. Thậm chí, con số này còn bao gồm cả phần do doanh nghiệp FDI sản xuất trong nước, vốn không phản ánh đúng năng lực tự chủ công nghệ. Nghị quyết 68 xác định rõ mục tiêu đến 2025 sẽ có một số doanh nghiệp chủ lực đủ năng lực kiểm soát chuỗi cung ứng nội địa, và đến năm 2030 sẽ hình thành ít nhất 20 doanh nghiệp đủ sức trở thành trung tâm trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Để hiện thực hóa tầm nhìn này, cần triển khai hiệu quả các chương trình hỗ trợ tín dụng, nâng cao năng suất, cải thiện chất lượng nhân lực và đảm bảo chính sách đến đúng nơi, đúng lúc. TS Lương Minh Huân đề xuất chiến lược phát triển các doanh nghiệp nòng cốt, đồng thời tạo hệ sinh thái các doanh nghiệp vệ tinh đi kèm. Bên cạnh đó, cần tăng cường chia sẻ công cụ quản trị, dữ liệu và nền tảng số cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa đối tượng đang gặp nhiều hạn chế về nguồn lực.

TS Lương Minh Huân - Viện trưởng Viện Phát triển Doanh nghiệp chia sẻ tại Tọa đàm.
Theo TS Lương Minh Huân, một vấn đề lớn hiện nay là sự thiếu kết nối giữa các doanh nghiệp trong cùng khu vực. Việc hợp tác liên vùng, liên ngành giữa doanh nghiệp, hiệp hội và chính quyền địa phương cần được thúc đẩy mạnh mẽ để phá vỡ rào cản văn hóa cục bộ và tạo nên một mạng lưới công nghiệp phát triển hài hòa và bền vững.
Tại Tọa đàm, các chuyên gia, nhà khoa học cũng đã đưa ra các kiến nghị thiết thực nhằm thúc đẩy quá trình đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học, công nghệ và chuyển đổi số trong doanh nghiệp.
Trước hết, cần xây dựng một hệ sinh thái hỗ trợ toàn diện, trong đó Nhà nước giữ vai trò định hướng, tạo khung pháp lý thuận lợi và cung cấp các gói hỗ trợ tài chính mang tính khuyến khích chứ không ép buộc. Ngoài ra, các chuyên gia đề xuất cần mở rộng các quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ đổi mới sáng tạo với thủ tục tiếp cận đơn giản, ưu tiên cho doanh nghiệp nhỏ và vừa là những đơn vị thường gặp khó khăn về vốn và nhân lực.
Cần phát triển các trung tâm hỗ trợ chuyển đổi số, đổi mới công nghệ theo mô hình liên kết “3 nhà”: nhà nước - nhà khoa học - doanh nghiệp, nhằm tạo cầu nối chuyển giao công nghệ một cách hiệu quả. Các chuyên gia cũng nhấn mạnh vai trò của đào tạo nhân lực số, đề xuất triển khai các chương trình đào tạo ngắn hạn, thực tiễn cao để nâng cao kỹ năng số cho đội ngũ lao động, đặc biệt trong các ngành sản xuất. Đồng thời, nên thúc đẩy các chương trình tư vấn miễn phí hoặc đồng tài trợ cho doanh nghiệp trong quá trình đánh giá hiện trạng số hóa, xây dựng lộ trình chuyển đổi phù hợp và triển khai công nghệ phù hợp với quy mô, lĩnh vực và năng lực của từng doanh nghiệp.
Phong Vũ