Thứ hai, 10/06/2019 13:06

Phát triển đại học đẳng cấp quốc tế: Kinh nghiệm của Trung Quốc và khuyến nghị đối với Việt Nam

PGS.TS Mai Ngọc Anh, PGS.TS Đỗ Thị Hải Hà, TS Nguyễn Đăng Núi

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

 

Trong một thời gian dài, dựa trên các chính sách tổng thể của quốc gia về nhân lực, cùng với việc tập trung đầu tư toàn diện cho các trường đại học, Trung Quốc đã xây dựng thành công các đại học đẳng cấp quốc tế cùng nhiều chương trình đào tạo có uy tín. Từ kinh nghiệm của Trung Quốc, các tác giả cho rằng, việc triển khai lộ trình xây dựng đại học đẳng cấp quốc tế nói riêng, nâng tầm vị thế cho các trường đại học của Việt Nam nói chung cần được quan tâm và triển khai bài bản trong thời gian tới.

Trung Quốc và chính sách phát triển đại học đẳng cấp quốc tế

Lộ trình đầu tư của nhà nước

Từ năm 1984 đến 1993, Chính phủ Trung Quốc đã đầu tư 910 triệu Nhân dân tệ (khoảng hơn 3.100 tỷ đồng) để xây dựng 81 phòng thí nghiệm cấp quốc gia. Ngoài ra, thông qua Dự án 211[1], hơn 17 tỷ Nhân dân tệ (khoảng hơn 58.000 tỷ đồng) đã được đầu tư nhằm nâng cao chất lượng cho 100 trường đại học trọng điểm quốc gia [1]. Sự hỗ trợ về tài chính này nhằm nâng cao vị thế các trường đại học của Trung Quốc. Không chỉ dừng ở đó, năm 1998, Trung Quốc thực hiện Dự án 985[2]. Theo đó, Đại học Bắc Kinh và Đại học Thanh Hoa là hai trường đầu tiên tham gia dự án này trong vòng 3 năm liên tiếp (tính từ 1999) với kinh phí khoảng 1,8 tỷ Nhân dân tệ/năm (khoảng hơn 6.156 tỷ đồng/năm). Ngoài hai đại học trên, có thêm 7 cơ sở giáo dục đại học cũng nhận được nguồn đầu tư từ Dự án này [2]. Như vậy, đã có tổng cộng 9 cơ sở đại học (được gọi là Ivy-leage của Trung Quốc) được tập trung đầu tư với tổng số kinh phí là 14 tỷ Nhân dân tệ (khoảng gần 48.000 tỷ đồng).

Ngoài những mục tiêu đầy tham vọng, Trung Quốc cũng xác định những mục tiêu thấp hơn là trở thành các cơ sở giáo dục đại học “được thế giới biết đến”. Năm 2000, 30 cơ sở giáo dục đại học khác được Chính phủ Trung Quốc đầu tư với số kinh phí là 18,9 tỷ Nhân dân tệ (khoảng 64.638 tỷ đồng), trong đó có đến 2/3 kinh phí đầu tư cho phát triển hạ tầng, trang thiết bị phục vụ giảng dạy và nghiên cứu) [3].

Gần đây nhất, năm 2017, Bộ Giáo dục đã công bố danh sách các trường được tham gia World Class 2.0 - là một chương trình quốc gia vươn tới 2 mục tiêu: phát triển cơ sở giáo dục đại học đẳng cấp quốc tế và đào tạo hàng đầu thế giới (Developing World-Class Universities and First-Class Disciplines Project). Như vậy, có thể coi kế hoạch xây dựng các trường đại học đẳng cấp ở Trung Quốc được chuẩn bị từ hơn 30 năm, chính thức bắt đầu từ năm 1995 với 3 chương trình lớn có liên quan là 211 (1995), 985 (1998) và World Class 2.0 (2017)...

Một số kết quả và trường hợp cụ thể

Tính đến năm 2019, theo đánh giá của bảng xếp hạng QS, bảng xếp hạng THE  (Times Higher Education) - bảng xếp hạng các trường đại học có các tiêu chí lựa chọn khắt khe hiện nay đối với các cơ sở giáo dục đại học đẳng cấp quốc tế, hai cơ sở giáo dục đại học hàng đầu của Trung Quốc (Đại học Thanh Hoa và Đại học Bắc Kinh) đã vươn lên trong top 50 trường đại học hàng đầu thế giới; 5 cơ sở giáo dục đại học trong Hệ thống Ivy league của Trung Quốc được xếp hạng từ 90 đến 200 cơ sở giáo dục đại học hàng đầu thế giới; khoảng 30 cơ sở giáo dục đại học được xếp hạng từ 300-1.000 đại học đẳng cấp thế giới. Tất cả các cơ sở này đều nằm trong Dự án đầu tư của Chính phủ Trung Quốc nêu trên (bảng 1).

Bảng 1. Xếp hạng các cơ sở giáo dục đại học đẳng cấp quốc tế của Trung Quốc.

Tên trường đại học

Xếp hạng cơ sở giáo dục đẳng cấp quốc tế theo QS 

Xếp hạng cơ sở giáo dục đẳng cấp quốc tế theo THE

2017

2019

2017

2019

Đại học Thanh Hoa

24

17

29

22

Đại học Bắc Kinh

39

30

35

31

Đại học Phúc Đán

43

44

155

104

Đại học Giao thông Thượng Hải

61

59

201-250

189

Đại học Khoa học Kỹ thuật Trung Quốc

104

98

153

93

Đại học Chiết Giang

110

68

201-250

101

Đại học Nam Kinh

115

122

201-250

134

Đại học Sư phạm Bắc Kinh

257

292

-

-

Đại học Vũ Hán

275

257

401-500

301-350

Đại học Công nghiệp Cáp Nhĩ Tân

278

285

501-600

401-500

Đại học Trung Sơn

297

295

401-500

301-350

Đại học Nam Khai

315

338

 

351-400

Đại học Đồng Tế

315

291

501-600

401-500

Đại học Giao thông Tây An

318

313

501-600

501-600

Đại học Công nghệ Bắc Kinh

389

464

601-800

601-800

 

Đại học Nhân dân

421-430

521-530

401-500

501-600

Đại học Khoa học kỹ thuật Hoa Đông

441-450

415

401-500

351-400

Đại học Thượng Hải

451-460

422

801-1000

801-1000

Đại học Hạ Môn

451-460

476

401-500

501-600

Đại học Công nghệ Hoa Đông

471-480

531-540

501-600

601-800

Đại học Công nghệ Đại Liên

481-490

571-580

601-800

601-800

Đại học Thiên Tân

481-490

443

 

501-600

Đại học Cát Lâm

491-500

475

601-800

801-1.000

Đại học Sơn Đông

501-550

541-550

-

-

Đại học Đông Nam

551-600

511-520

 

501-600

Đại học Sư phạm Hoa Đông

551-600

501-510

501-600

501-600

Đại học Lan Châu

551-600

601-650

-

-

Đại học Tứ Xuyên

551-600

601-650

601-800

601-800

Đại học Công nghệ Hoa Nam

551-600

541-550

601-800

501-600

Đại học Khoa học kỹ thuật Bắc Kinh

551-600

751-800

-

801-1.000

Đại học Công nghiệp Bắc Kinh

651-700

751-800

-

-

Đại học Giao thông Bắc Kinh

701+

751-800

-

801-1.000

(Nguồn: https://www.timeshighereducation.com; https://www.topuniversities.com).

Trong số các trường đại học nêu trên, Đại học Phúc Đán (Thượng Hải) là một ví dụ thành công tiêu biểu. Năm 1994, Đại học Phúc Đán lọt vào danh sách các trường được Dự án 211 đầu tư với mục tiêu sau 10 năm trở thành trường đại học đạt đẳng cấp thế giới. Năm 1999, cơ sở đào tạo này cũng trở thành trường đầu tiên tham gia Dự án 985. Bước đi đầu tiên cho giai đoạn mới này là Đại học Phúc Đán và Trường Y Thượng Hải sáp nhập, tạo thành một trường đại học đa ngành vào tháng 4/2000, với việc bổ sung 8 bệnh viện kiêm cơ sở đào tạo trong lĩnh vực y tế. Nhờ sự đầu tư kinh phí mạnh mẽ từ 2 dự án trên, năm 2018, 278 nhân sự cấp cao và tài năng trẻ bao gồm những người đoạt Giải Nobel và các chuyên gia từ các ngành kỹ thuật mới đã gia nhập trường này[3]. Đến nay, Trường có 1.350 giáo sư, phó giáo sư, trong số đó 30 người là viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc và Viện Hàn lâm Kỹ thuật Trung Quốc. Năm 2019, Trường Đại học Phúc Đán đã bắt đầu mở cơ sở ở Budapest (Hungary), hoàn thiện hoạt động xây dựng một số trung tâm nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn ở các nước chuyên nghiên cứu về Trung Quốc và Khổng Tử, hợp tác với Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị London (Anh) thành lập Viện Chính sách công toàn cầu và khởi động các hợp tác với Trường Đại học Y Harvard thuộc Đại học Harvard (Mỹ)… Với quá trình đầu tư bài bản như vậy, năm 2019, Trường đã lọt top 43 (theo bảng xếp hạng đại học của QS) và top 104 (theo bảng xếp hạng của THE) các trường đại học quốc tế.

Đại học Vũ Hán (WUT) cũng là một ví dụ nổi bật. Năm 2019, WUT lọt top 257 trường đại học trong bảng xếp hạng của QS và top 301-350 trường đại học trong bảng xếp hạng của THE.

Năm 2000, WUT được sáp nhập từ 3 trường kỹ thuật là Đại học Công nghệ Vũ Hán cũ (thành lập năm 1948), Đại học Vận tải Vũ Hán (thành lập năm 1946) và Đại học Bách khoa Ô tô Vũ Hán (thành lập năm 1958). Đến nay, WUT là địa chỉ đào tạo kỹ sư và kỹ thuật viên có uy tín, luôn duy trì vị thế là một trong những trường đại học có quy mô lớn nhất của Trung Quốc. Hiện tại với 3 cơ sở chính, WUT có 3.282 cán bộ nghiên cứu cơ hữu; thu hút thành công 30 giáo sư nổi tiếng trên toàn cầu trong các lĩnh vực: khoa học và kỹ thuật vật liệu, cơ khí, công nghệ thông tin và kiến trúc hải quân; kỹ thuật đại dương… đến làm việc tại Trường. Từ năm 2017 đến nay, WUT lọt vào cả 4 bảng xếp hạng đại học quốc tế.

Đôi điều khuyến nghị cho Việt Nam

            Nhờ nhất quán trong chính sách quốc gia cũng như có kế hoạch dài hạn và nhất quán khi đầu tư đưa các trường đại học trong nước tham gia xếp hạng thế giới, Trung Quốc đã xác lập các mục tiêu, lộ trình và đầu tư, lồng ghép hiệu quả trong nhiều chương trình đầu tư lớn. Đến nay, các cơ sở giáo dục đại học Trung Quốc đã có các bước đi mạnh mẽ, hội nhập thành công và đứng trong các bảng xếp hạng với thứ hạng cao. Kinh nghiệm rút ra cho việc xây dựng đại học đẳng cấp của Việt Nam gồm các vấn đề sau:

Một là, có quan điểm thống nhất, đúng đắn về sự cần thiết của xếp hạng đại học. Trong giới quản lý về giáo dục đại học nước ta còn có ý kiến trái ngược nhau về xếp hạng đại học [4]. Mục tiêu xếp hạng đại học quốc tế là để đảm bảo sự hội nhập của nền giáo dục đại học mà bất cứ quốc gia nào cũng phải vươn tới dù sớm hay muộn, đồng thời tạo ra một số trường hoa tiêu để từ đó nâng cao chất lượng giáo dục đại học chung của quốc gia. Các trường đại học hàng đầu ở Việt Nam cần tạo ra nhu cầu tự thân trong xếp hạng đại học, phấn đấu nâng tầm nhà trường theo các tiêu chí của bảng xếp hạng quốc tế, từ đó xây dựng cơ cấu bộ máy, cách quản trị, nguồn nhân lực phù hợp mới đáp ứng được các yêu cầu này. Ở Việt Nam, hiện chỉ có hai Đại học Quốc gia là các đại học đa ngành được xếp trong top 700-1.000 trường đại học hàng đầu thế giới trong tổng số 13 cơ sở giáo dục đại học Việt Nam có mặt trong bảng xếp hạng của QS[4]. Việt Nam cần đặt ra mục tiêu chung trong xếp hạng đại học, phấn đấu đưa hai trường này lọt top 300-500 trường đại học thế giới theo tiêu chuẩn xếp hạng của QS. Khi bàn về xếp hạng đại học, GS.TS Nguyễn Hữu Đức - Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội đề xuất, tuỳ theo chiến lược phát triển từng giai đoạn, các trường toàn quyền lựa chọn bảng xếp hạng quốc tế để tham gia, khả thi nhưng phải có tính hội nhập và phổ quát cao để dễ có sự đối sánh hệ thống. Ở cấp độ quốc gia, cần thiết phải hình thành một nhóm chuyên gia có đại diện của cơ quan quản lý nhà nước và các cơ sở giáo dục đại học có điều kiện và kế hoạch tham gia xếp hạng triển khai xây dựng bộ tiêu chí và quy trình đánh giá xếp hạng riêng cho các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam.

Hai là, để đầu tư cho các trường đại học, cần sớm có lộ trình và sự hỗ trợ quyết liệt từ phía Nhà nước. Trong điều kiện Việt Nam, trước hết, nghiên cứu ưu tiên phát triển một số ngành/chương trình đào tạo trọng điểm dựa trên lợi thế (như y tế, nông nghiệp…), phấn đấu đến 2030 có được 5-10 chương trình đào tạo/lĩnh vực được xếp hạng trong 200 chương trình đào tạo hàng đầu toàn cầu. Để làm được điều này, song song với việc triển khai đầu tư xây dựng hạ tầng, trang thiết bị phục vụ giảng dạy, nghiên cứu, cần có giải pháp đẩy mạnh thu hút các nhà khoa học, học giả là người Việt Nam có uy tín đang giảng dạy ở các cơ sở giáo dục đại học hàng đầu thế giới về nghiên cứu, giảng dạy ở các trường đại học trong nước. Có như thế, mới có đủ điều kiện thúc đẩy hoạt động hợp tác về KH&CN với các đối tác lớn ở các nước phát triển, nâng tầm các chương trình đào tạo sau đại học, tạo vị thế mới cho các trường đại học trong nước, tạo thuận lợi trong quá trình xây dựng một số chương trình đào tạo thế mạnh đạt chất lượng quốc tế cũng như hiện thực hóa việc thu hút nghiên cứu sinh từ các nước châu Á.

Ba là, để triển khai xếp hạng đại học và đầu tư đưa một số trường đại học đạt đẳng cấp quốc tế, cần lựa chọn sáp nhập một số cơ sở giáo dục đại học trọng điểm để hình thành 2-3 trường đại học đa ngành/đa lĩnh vực với các chương trình đào tạo tiên tiến. Các đại học đa ngành mới là mô hình có thể vươn tới các chỉ tiêu cần đạt được khi muốn nằm trong các bảng xếp hạng đại học thế giới, còn nếu chỉ ở dạng đơn ngành thì không phù hợp. Đây là cách mà chính phủ Trung Quốc đã áp dụng rất thành công đối với WUT hay Đại học Phúc Đán: đưa một trường đại học thuộc khu vực miền trung đạt được thứ bậc cao trong các bảng xếp hạng giáo dục đại học của thế giới[5] và một trường đại học ở một đô thị lớn lọt trong 100 trường đại học hàng đầu quốc tế.

Bốn là, khi đưa ra lộ trình đầu tư cho các trường đại học theo đẳng cấp quốc tế cần  chia thành nhiều giai đoạn, đầu tư tập trung nhưng đồng thời có sự đánh giá, trường hợp cơ sở nào không đáp ứng các chỉ tiêu đề ra trong giai đoạn trước đều bị loại và thay bằng các cơ sở giáo dục đại học khác hội đủ điều kiện. Điều này khiến các trường luôn có sự thi đua với nhau và với chính trường mình trong giai đoạn trước trong lộ trình thúc đẩy hội nhập và nâng cao vị thế của các trường đại học.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 [1] Zong and Zhang (2017), “Establishing world-class universities in China: deploying a quasi-experimental design to evaluate the net effects of Project 985”, Studies in Higher Education, DOI: 10.1080/03075079.2017.1368475.

[2] Zhao and Zhu (2010), China’s higher education reform: What has not been changed?, East Asian Policy, www.eai.nus.edu.sg/publications/files/BB539.pdf.

[3] Cheng Ying (2011), “A reflection on the effects of the 985 Project”, Chinese Education & Society, https://doi.org/10.2753/CED1061-1932440502.

[4] Phạm Thị Hương (2018), Đưa xếp hạng vào chính sách phát triển giáo dục đại học? http://tiasang.com.vn/-giao-duc/Dua-xep-hang-vao-chinh-sach-phat-trien-giao-duc-dai-hoc-12479.

[5] VNU Media - Tia Sáng, Xếp hạng đại học: giải pháp cho Việt Nam, https://www.vnu.edu.vn/ttsk/?C1654/N22077/Xep-hang-dai-hoc:-Giai-phap-cho-Viet-Nam.htm.

1Nghiên cứu này là kết quả của Đề tài KHGD/16-20.ĐT003 do Bộ Giáo dục và Đào tạo tài trợ. Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn.

 



[1]Dự án được Quốc vụ viện Trung Quốc phê chuẩn vào tháng 11/1995, phát triển 100 trường đại học trọng điểm và các ngành trọng điểm, hướng tới thế kỷ XXI.

[2]Dự án 985 được đặt tên theo bài phát biểu của Tổng Bí thư Giang Trạch Dân tại Lễ kỷ niệm 100 năm thành lập Đại học Bắc Kinh (tháng 5/1998): "Để đạt được hiện đại hóa, Trung Quốc phải có một số trường đại học hàng đầu, đẳng cấp thế giới". Các trường đại học trọng điểm đã được Bộ Giáo dục Trung Quốc lựa chọn và đầu tư trở thành các trường đẳng cấp thế giới (đại học trọng điểm trong những trường trọng điểm thuộc Dự án 211).

[5]http://english.whut.edu.cn/scjc/; http://english.whut.edu.cn/profile/; và http://english.whut.edu.cn/scientficr/IRR/.

 

 

Đánh giá

X
(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)