Thứ hai, 18/11/2024 15:31

Ứng dụng công nghệ cao trong quản lý sản xuất lâm nghiệp bền vững

Đây là chủ đề của Hội thảo do Cục Lâm nghiệp phối hợp với Trường Đại học Lâm nghiệp tổ chức tại Hà Nội ngày 15/11/2024. Hội thảo là một trong những hoạt động hướng tới kỷ niệm 60 năm thành lập Trường Đại học Lâm nghiệp.

Lâm nghiệp là một ngành kinh tế, kỹ thuật, sản xuất theo chuỗi, bao gồm từ khâu giống, trồng rừng, quản lý, bảo vệ, khai thác, chế biến và xuất khẩu lâm sản. Đồng thời, có gần 20 triệu đồng bào Việt Nam sống trong và gần rừng. Do đó, ngành lâm nghiệp có tính đặc thù rất cao. Hiện ngành lâm nghiệp được giao quản lý gần 15 triệu ha rừng, trong đó có trên 10 triệu ha là rừng tự nhiên, còn lại là rừng trồng. Theo cơ cấu 3 loại rừng, có khoảng 4,6 triệu ha rừng phòng hộ, 2,2 triệu ha rừng đặc dụng (các khu bảo tồn thiên nhiên và vườn quốc gia) và khoảng 7,8 triệu ha rừng sản xuất (gồm rừng trồng và rừng tự nhiên).

Cục trưởng Cục Lâm nghiệp Trần Quan Bảo phát biểu tại Hội thảo.

Theo ông Trần Quan Bảo - Cục trưởng Cục Lâm nghiệp, vấn đề ứng dụng công nghệ cao trong lĩnh vực lâm nghiệp ngày càng quan trọng, đóng góp thiết thực vào sự tăng trưởng của ngành. Điều này thể hiện trước hết ở công tác giống, phục vụ nâng cao năng suất, chất lượng giống trồng. Hiện mỗi năm, ngành lâm nghiệp trồng tái canh khoảng 260.000 ha rừng. Do vậy, dư địa đất để mở rộng quỹ đất sản xuất trồng rừng không còn nhiều. Muốn tăng sản lượng khai thác và cung cấp nguyên liệu chế biến đồ gỗ xuất khẩu, chủ yếu dựa vào việc tăng năng suất rừng trồng cũng như trồng cây gỗ lớn và các loại cây có giá trị kinh tế cao. Một trong những yếu tố quan trọng chính là ứng dụng công nghệ sinh học vào cải thiện giống cây rừng.

Trong thời gian qua, Việt Nam đã khá thành công trong việc cải thiện, nâng cao năng suất các giống cây trồng để phục vụ trồng rừng, đặc biệt hướng tới trồng rừng gỗ lớn. Tuy nhiên, hiện năng suất bình quân rừng trồng của cả nước chỉ đạt khoảng 15-18 m3/ha/năm. Con số này so với năng suất khảo nghiệm, thí nghiệm về mô hình và thâm canh (bình quân 30 m3/ha/năm) còn khá thấp. Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu, chọn tạo các loài cây thích ứng nhiều điều kiện lập địa và khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu ở các vùng khác nhau để nâng cao năng suất, chất lượng rừng trồng.

Với gần 15 triệu ha rừng, trải dài khắp cả nước thì công tác theo dõi, quản lý, giám sát tài nguyên rừng đòi hỏi ứng dụng công nghệ cao rất lớn, đặc biệt là lĩnh vực về công nghệ GIS và viễn thám để cập nhật, truy sử hình ảnh vệ tinh. Từ đó, theo dõi, giám sát rừng một cách tự động, thường xuyên; giảm thiểu công sức cũng như việc tuần tra, theo dõi trên mặt đất. Trong xu thế mới, việc tính toán diện tích rừng liên quan đến hấp thụ CO2 để giảm thiểu tác động của biến đổi của khí hậu cũng là lĩnh vực ưu tiên, cần ứng dụng công nghệ cao.

Ngành lâm nghiệp Việt Nam về tổng giá trị xuất khẩu đồ gỗ đứng thứ 2 trong các nước trên thế giới, với bình quân 16 tỷ USD/năm. Nếu tính cả thị trường nội địa, Việt Nam đứng thứ 5, sau Trung Quốc, Đức, Ba Lan và Ý. Công tác chế biến đồ gỗ có 80% đến từ gỗ rừng trồng trong nước. Tuy nhiên, đặc thù của gỗ trồng trong nước là những loài gỗ nhỏ, cần công nghệ chế biến về biến tính gỗ, uốn, xẻ, những công tác về chế biến sâu để nâng cao giá trị, gia tăng xuất khẩu.

Bên cạnh đó, nước ta không còn đất để mở rộng diện tích rừng. Do vậy chỉ còn con đường tăng năng suất, tăng giá trị gia tăng. Việt Nam đã tập trung cao cho hướng tăng năng suất, tăng giá trị gia tăng thông qua chế biến và vẫn có một dư địa bằng cách khai thác các giá trị từ gỗ, từ lâm sản và từ môi trường rừng, đặc biệt là tăng giá trị gia tăng.

Trước thực tiễn nêu trên, Hội thảo “Ứng dụng công nghệ cao trong quản lý sản xuất lâm nghiệp bền vững” được các đại biểu đánh giá đã đi rất đúng hướng. Với xu hướng thời đại hiện nay, trong lâm sinh cần chú trọng vào công nghệ gen, công nghệ viễn thám; trong quản lý, chế biến, thương mại là công nghệ số. Hội thảo được tổ chức tạo diễn đàn trao đổi, thảo luận những giải pháp công nghệ cao, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và sản xuất lâm nghiệp bền vững, mang lại giá trị kinh tế cao. Đồng thời, bảo tồn các giá trị sinh thái và môi trường, đóng góp trực tiếp cho chiến lược phát triển của ngành lâm nghiệp và của đất nước.

Để quản lý và sản xuất lâm nghiệp bền vững, trong thời gian tới, các giải pháp chuyển đổi số ngành lâm nghiệp cần tập trung vào đầu tư vào hạ tầng công nghệ/hạ tầng kỹ thuật số thông qua việc xây dựng hệ thống thiết bị công nghệ thông tin hiện đại, đáp ứng yêu cầu thiết lập và phát triển cơ sở dữ liệu tập trung về lâm nghiệp. Phát triển các ứng dụng, dịch vụ thông minh trong quản lý, giám sát tài nguyên rừng, đa dạng sinh học hệ sinh thái rừng và các lĩnh vực đặc thù của ngành. Tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp công nghệ, các tổ chức quốc tế để huy động nguồn lực và kinh nghiệm cho quá trình chuyển đổi số. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu toàn diện (kho dữ liệu) về lâm nghiệp để lưu trữ, tăng cường kết nối và chia sẻ thông tin trên toàn quốc. Đẩy mạnh đào tạo nhân lực có kỹ năng về công nghệ số, nâng cao nhận thức về chuyển đổi số cho cán bộ lâm nghiệp các cấp. Thiết lập cơ chế pháp lý rõ ràng, thống nhất về quản lý dữ liệu và bảo mật thông tin, nhằm đảm bảo tính hiệu quả và an toàn trong quá trình triển khai.

CM

 

 

Đánh giá

X
(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)