Thực trạng RTN tại Việt Nam
Theo số liệu thống kê từ Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN), mỗi năm có 8 triệu tấn RTN được đổ ra biển trên toàn thế giới. RTN trên biển có nguồn gốc chủ yếu là từ đất liền (khoảng 80%), phần còn lại là đổ thải trực tiếp ra biển. Tại Việt Nam, trung bình mỗi gia đình sẽ sử dụng 1 kg túi ni-lông/tháng, riêng tại 2 thành phố lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh trung bình mỗi ngày thải ra môi trường khoảng 80 tấn RTN và túi ni-lông. Thống kê của Hiệp hội Nhựa Việt Nam cho thấy, lượng chất thải nhựa và túi ni-lông ở Việt Nam chiếm khoảng 8-12% chất thải rắn sinh hoạt, nhưng chỉ có khoảng 11-12% số lượng chất thải nhựa, túi ni-lông được xử lý, tái chế, số còn lại chủ yếu là chôn lấp, đốt và thải ra ngoài môi trường. Ðây là lý do có thể dẫn đến thảm họa môi trường, đặc biệt là ô nhiễm đại dương. Bởi nhựa là một hợp chất cao phân tử và khó phân hủy, sẽ phải mất hàng trăm năm, thậm chí là hàng nghìn năm để có thể phân hủy hết. Các nhà khoa học cảnh báo, nếu không có sự tác động bởi nhiệt độ cao do ánh sáng mặt trời thì phải mất từ 500 đến 1.000 năm mới có thể phân hủy được một túi ni-lông.
Diện tích Việt Nam đứng thứ 68 trên thế giới, nhưng đứng thứ 4 thế giới về lượng RTN, với khoảng hơn 1,85 triệu tấn/năm. Ðiều đó đã làm tình trạng ô nhiễm ở nước ta trở nên nghiêm trọng hơn, bởi RTN ảnh hưởng tới cảnh quan, môi trường sống, sức khỏe con người và các loài sinh vật, gây thiệt hại cho các ngành kinh tế như du lịch, hay đánh bắt, nuôi trồng thủy, hải sản...
Ngày nay, trước thực trạng tài nguyên thiên nhiên đang dần cạn kiệt, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu, bài toán đặt ra là phải chuyển đổi phương thức, mô hình theo hướng bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội, mà vẫn bảo vệ được môi trường. Với mô hình kinh tế truyền thống hiện nay, nguyên liệu được khai thác, sản xuất, sử dụng và thải bỏ. Trong khi đó, nền kinh tế tuần hoàn lấy việc tái sử dụng tuần hoàn nguyên liệu làm trọng tâm, giảm tiêu hao nguyên liệu, nâng cao hiệu quả sản xuất và giảm đến mức thấp nhất ảnh hưởng tới môi trường. Chuyển đổi từ mô hình kinh tế truyền thống sang mô hình kinh tế tuần hoàn là một cách tiếp cận hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, đã được Chính phủ của nhiều quốc gia hưởng ứng và triển khai.
Với sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ ngành công nghiệp nhựa tại Việt Nam, nhất là với nguồn phế liệu nhựa thải lên tới 18 nghìn tấn/ngày, giá phế liệu lại thấp, do đó giá thành cũng thấp hơn so với giá của nhựa nguyên sinh. Ðây có thể được coi là thế mạnh để áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn. Tuy nhiên, thời gian qua việc thiếu hụt các chính sách phát triển dành riêng cho nhựa tái chế đang khiến các doanh nghiệp trong ngành gặp khó khăn khi mở rộng sản xuất và nâng cao chất lượng, làm suy giảm sức cạnh tranh trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế khu vực, thế giới. Việt Nam chưa có thể chế pháp lý đầy đủ về kinh tế tuần hoàn, mà mới chỉ dừng lại ở quy định bước đầu về tái sử dụng, tái chế chất thải, mang lại lợi ích về tài chính cho cơ sở sản xuất và tiêu dùng, nên hoạt động của các mô hình đó đã gây ô nhiễm và suy thoái môi trường…
Chính phủ đang không ngừng khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động trong ngành nhựa Việt Nam đầu tư hơn về công nghệ để tái chế RTN. Điều này có thể giúp hạn chế tình trạng nhập khẩu phế liệu và xử lý tốt nguồn lượng RTN phát sinh.
Đề xuất giải pháp
Theo các chuyên gia môi trường, để thúc đẩy ngành công nghiệp tái chế, cần thực hiện việc phân loại rác thải tại nguồn. Việc này hiện chưa được triển khai đồng bộ và hiệu quả, đồng thời cần có những chính sách ưu đãi đầu tư cần thiết và phù hợp để doanh nghiệp mạnh dạn tham gia đầu tư vào lĩnh vực này. Thu gom, phân loại tái chế là một trong những khâu cần thiết và quan trọng để hạn chế những tác động xấu của RTN đến môi trường và sức khỏe cộng đồng. Tiềm năng phát triển ngành tái chế chất thải tại Việt Nam là rất lớn, muốn tái chế và phát triển ngành tái chế để hạn chế RTN ra môi trường, đưa rác thải quay lại phục vụ đời sống thì cần phải làm tốt việc phân loại rác thải tại nguồn, khâu này là quan trọng nhất. Thế nhưng trong nước, nhựa phế liệu tuy có nhưng phần lớn đều trộn lẫn với rác thải sinh hoạt và xử lý bằng biện pháp chôn lấp, số ít thu gom được từ hoạt động ve chai nhưng không đáng kể. Trang bị cơ sở vật chất và công tác xử lý sau phân loại là khâu cần hoàn thiện để mô hình phân loại rác tại nguồn phát huy hiệu quả. Để làm được điều này, cần phải giải quyết đồng bộ, từ việc thay đổi ý thức của người dân đối với phân loại và thu gom rác thải, đến cho phép doanh nghiệp có thời gian để chuyển đổi kinh doanh tái chế.
Các sản phẩm từ nhựa tái chế.
Để giảm RTN, đồng thời hướng tới nền kinh tế tuần hoàn ngành nhựa, Việt Nam cần phải quản lý theo chuỗi giá trị của nhựa, bắt đầu từ khâu thiết kế sản xuất và kiểm soát nguyên liệu đầu vào; đẩy mạnh công tác bảo vệ môi trường trong giai đoạn sản xuất, thương mại và tiêu thụ và thúc đẩy 3R+; hạn chế sử dụng các sản phẩm nhựa dùng một lần, vật liệu đóng gói...
Muốn nền kinh tế tuần hoàn phát triển và giảm bớt RTN, Việt Nam cần có những lộ trình cần thiết như: i) xác định danh mục bao bì nhựa không cần thiết và có nguy cơ cao cùng với việc xây dựng kế hoạch tiêu hủy các thành phần này; ii) thể chế hóa trách nhiệm nhà sản xuất trong ngành bao bì nhựa để đầu tư vào hạ tầng tái chế; iii) cải tiến, khuyến khích việc thay đổi sử dụng từ khó thực hiện đến tuần hoàn rác nhựa; iv) tăng cung ứng số lượng và chất lượng phế thải nhựa có thể tái chế và một số vấn đề cần lưu tâm khác.
Việt Nam đang thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững và ứng phó biến đổi khí hậu. Phát triển kinh tế tuần hoàn ngành nhựa sẽ giúp giảm các chất gây hiệu ứng nhà kính. Khi phát triển kinh tế tuần hoàn cho ngành nhựa ở Việt Nam cũng sẽ nhận được sự đồng thuận cao và sự ủng hộ của xã hội, cách thức phát triển này sẽ giải quyết được sự khan hiếm tài nguyên, giải quyết được bài toán về nguồn nguyên liệu nhựa trong nước, bởi hiện nay khoảng 80% số nguyên liệu nhựa nước ta là nhập khẩu từ nước ngoài. Trong khi đó, nếu tái chế được RTN trong nước, các doanh nghiệp cũng sẽ bớt phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu và bớt được các loại thuế nhập khẩu. Hơn nữa, mô hình nền kinh tế này còn bảo vệ môi trường và chất lượng môi trường được cải thiện…
Nguyễn Việt Anh