Năm 2020 tình hình kinh tế - xã hội nước ta diễn ra trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 nên gặp không ít khó khăn, thách thức do vừa phải chống dịch vừa phải đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội. Mặc dù thu nhập của dân cư có giảm so với năm 2019, nhưng tỷ lệ hộ nghèo vẫn giảm do Chính phủ thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội. Tuy nhiên, mức sống vẫn có sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa nhóm dân cư giàu và nghèo, giữa các vùng. Đây là vấn đề đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách phải tiếp tục quan tâm giải quyết.
Cơ cấu thu nhập có sự chuyển biến theo hướng tiến bộ hơn
TNBQ 1 người 1 tháng chung cả nước năm 2020 theo giá hiện hành đạt khoảng 4,230 triệu đồng, giảm khoảng 2% so với năm 2019. TNBQ đầu người/tháng năm 2020 ở khu vực thành thị đạt 5,538 triệu đồng, cao gấp gần 1,6 lần khu vực nông thôn (3,480 nghìn đồng). Chia theo nhóm, thì nhóm hộ giàu nhất (20% dân số giàu nhất - nhóm 5) có TNBQ 1 người 1 tháng năm 2020 đạt 9,108 nghìn đồng, cao gấp hơn 8 lần so với nhóm hộ nghèo nhất (20% dân số nghèo nhất - nhóm 1) với mức thu nhập đạt 1,139 triệu đồng. Vùng có TNBQ đầu người/tháng cao nhất là vùng Đông Nam Bộ (6,023 triệu đồng), cao gấp 2,2 lần vùng có TNBQ đầu người/tháng thấp nhất là vùng Trung du và miền núi phía Bắc (2,745 triệu đồng). Xét theo địa phương, Bình Dương là tỉnh có TNBQ đầu người/tháng cao nhất cả nước (7,019 triệu đồng), tiếp đến là các tỉnh/thành phố: Hồ Chí Minh (6,537 triệu đồng), Hà Nội (5,981 triệu đồng), Bắc Ninh (5,439 triệu đồng), Đà Nẵng (5,284 triệu đồng), Hải Phòng (5,199 triệu đồng), Cần Thơ (5,031 triệu đồng); tỉnh có thu nhập bình quân thấp nhất cả nước là Điện Biên với 1,737 triệu đồng/tháng.
Về cơ cấu nguồn thu, trong năm 2020, tỷ trọng thu từ tiền lương, tiền công chiếm 55,3%; thu từ hoạt động tự làm nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm 11,2%, thu từ hoạt động tự làm phi nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 22,9%, thu khác chiếm 10,6%. Cơ cấu thu nhập qua các năm đã có sự chuyển biến theo hướng tiến bộ hơn, trong đó tỷ trọng thu từ tiền lương, tiền công ngày càng tăng; ngược lại tỷ trọng thu từ hoạt động tự làm nông, lâm nghiệp, thuỷ sản ngày càng giảm, kết quả này phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu trong việc làm.
Chi tiêu bình quân và tiêu dùng lương thực, thực phẩm
Năm 2020 chi tiêu bình quân hộ gia đình cả nước là 2,89 triệu đồng/người/tháng, tăng 13% so với 2018. Năm 2020 là một năm người dân bị ảnh hưởng nặng nề do dịch bệnh Covid-19, có thể thấy rằng chi tiêu năm này tăng chậm hơn so với thời kỳ trước (chi tiêu bình quân năm 2018 tăng 18% so với 2016). Các hộ gia đình ở thành thị có mức chi tiêu bình quân đầu người/tháng xấp xỉ 3,8 triệu đồng trong khi các hộ nông thôn chỉ ở mức 2,4 triệu đồng. Vùng Đông Nam Bộ luôn đứng đầu cả nước với mức chi tiêu hộ gia đình cao nhất (xấp xỉ 3,9 triệu đồng/người/tháng). Vùng Trung du miền núi phía Bắc có mức chi thấp nhất (tương đương 2,1 triệu đồng/người/tháng).
Tiêu dùng lương thực, thực phẩm qua số liệu cho thấy một xu hướng rõ ràng là các hộ gia đình có xu hướng giảm dần việc tiêu thụ tinh bột, như việc lượng gạo tiêu thụ bình quân một người một tháng giảm dần qua các năm (từ 9,7 kg/người/tháng năm 2010 xuống còn 8,1 kg/người/tháng năm 2018 và chỉ còn 7,6 kg/người/tháng năm 2020). Thói quen ăn uống cho thấy các hộ gia đình sống ở vùng nông thôn thường tiêu thụ nhiều gạo hơn so với các hộ gia đình thành thị (8,5 so với 6,1 kg/người/tháng). Lượng tiêu thụ thịt các loại có xu hướng tăng nhẹ qua các năm (từ 1,8 kg/người/tháng năm 2010 lên 2,3 kg/người/tháng năm 2020). Lượng tiêu thụ rượu bia có dấu hiệu tăng nhẹ trong năm 2020 (từ 0,9 lít/người/tháng năm 2018 lên 1,3 lít/người/tháng năm 2020); lượng tiêu thụ mặt hàng này của nhóm hộ gia đình khá giả nhất cũng cao hơn so với nhóm hộ gia đình nghèo nhất (2,4 so với 1,3 lít/người/tháng).
Các nhu cầu thiết yếu khác
Chất lượng nguồn nước sinh hoạt của hộ gia đình được nâng cao một cách rõ rệt.
Chất lượng nguồn nước sinh hoạt của hộ gia đình được nâng cao một cách rõ rệt. Tỷ lệ hộ có nguồn nước hợp vệ sinh năm 2020 là 97,4%, tăng 6,9 điểm phần trăm so với năm 2010. Tỷ lệ này tăng nhanh ở khu vực nông thôn (năm 2020 tăng 8,8 điểm phần trăm so với năm 2010) và các khu vực: Đồng bằng sông Cửu Long (15,9 điểm phần trăm), Tây Nguyên (13,9 điểm phần trăm) và Trung du và miền núi phía Bắc (9,7 điểm phần trăm).
Sử dụng điện sinh hoạt cũng là một trong số các chiều quan trọng phản ánh đời sống cư dân. Ở nước ta, việc đưa điện lưới quốc gia đến từng hộ gia đình, vùng miền ở mức rất cao, năm 2020, tỷ lệ hộ sử dụng điện sinh hoạt đạt 99,5%, trong đó gần như không có sự khác biệt đáng kể giữa các khu vực thành thị - nông thôn và giữa các vùng miền, địa phương. Thực tế số liệu cho thấy tại nhiều địa phương, tỷ lệ này đã đạt 100% từ nhiều năm qua.
Với tư tưởng “an cư lạc nghiệp”, chất lượng nhà ở có vai trò vô cùng quan trọng quyết định tới chất lượng đời sống dân cư. Kết quả khảo sát của Tổng cục Thống kê cho thấy, chất lượng nhà ở của các hộ gia đình nước ta ở mức khá cao: năm 2020, tỷ lệ hộ gia đình sống trong nhà kiên cố và bán kiên cố lên tới 95,6%, chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ hộ gia đình sống trong nhà thiếu kiên cố và nhà đơn sơ, không hẳn là do điều kiện kinh tế kém mà đôi khi do điều kiện tự nhiên, phong tục tập quán lâu đời, ví dụ các hộ gia đình khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và Trung du và miền núi phía Bắc. Năm 2020, diện tích nhà ở bình quân đầu người trên cả nước đạt mức 25,2 m2, tăng 7,3 m2 so với năm 2010 (tương ứng tăng 40,8%).
Tỷ lệ nghèo theo tiếp cận đa chiều giảm còn 4,8%
Tỷ lệ hộ nghèo theo tiếp cận đa chiều chung cả nước năm 2020 là 4,8%, giảm 0,9 điểm phần trăm so với năm 2019. Tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận đa chiều ở nông thôn là 7,1%, cao hơn nhiều ở khu vực thành thị là 1,1%. Vùng Trung du và miền núi phía Bắc có tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận đa chiều cao nhất (14,4%), tiếp đến là các vùng Tây Nguyên (11%), Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (6,5%). Vùng có tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận đa chiều thấp nhất là Đông Nam Bộ (0,3%).
Năm 2020, có 19,4% số hộ dân cư được hưởng lợi từ dự án/chính sách giảm nghèo. Trong đó, có 17,11% hộ được hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế, 0,95% hộ được miễn giảm chi phí khám chữa bệnh cho người nghèo, 0,36% hộ được hưởng tín dụng ưu đãi cho người nghèo.
Văn Cương