Theo báo cáo tại Hội nghị, giai đoạn 2016-2020, đã có 400 dự án (trong đó có 337 dự án Trung ương quản lý, 63 dự án ủy quền địa phương quản lý) được phê duyệt thực hiện trong khuôn khổ Chương trình nông thôn miền núi giai đoạn 2016-2025. Các dự án đã xây dựng được hàng nghìn mô hình ứng dụng tiến bộ KH&CN, chuyển giao thành công hàng nghìn lượt công nghệ và tiến bộ kỹ thuật phù hợp với từng vùng miền, góp phần quan trọng vào thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi và vùng dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, Chương trình đã góp phần đào tạo được 1.800 học viên về phương pháp xác định nội dung dự án triển khai; phương thức tổ chức quản lý, điều hành thực hiện dự án...; tập huấn cho 1.650 học viên về các quy định về tài chính, kế toán, hướng dẫn công tác quản lý và tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện dự án; đào tạo được 3.520 kỹ thuật viên và tập huấn cho hơn 78.000 người dân về công nghệ chuyển giao cho các dự án.
Đặc biệt, trong giai đoạn này, các dự án theo chuỗi liên kết được ưu tiên lựa chọn nhằm tạo hướng đi bền vững giúp nâng cao hiệu quả sản xuất và thu nhập cho người dân, trong đó xây dựng các mô hình liên kết giữa đơn vị sản xuất với người nông dân và với nhà phân phối thành chuỗi giá trị từ khâu đầu vào, sản xuất, sau thu hoạch, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm. Tỷ lệ các dự án do doanh nghiệp chủ trì đạt 66,5%, cao hơn nhiều so với các giai đoạn trước đây (giai đoạn 2004-2010 là 26,2%; giai đoạn 2011-2015 là 44,5%), điều này thể hiện sự thay đổi về mặt tư duy trong việc đề xuất dự án từ địa phương: các doanh nghiệp được khuyến khích tham gia thực hiện dự án nhằm đổi mới công nghệ để tạo ra các sản phẩm có giá trị cao và thu hút nguồn lực xã hội tham gia vào sản xuất.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Hoàng Giang phát biểu tại Hội nghị
Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Hoàng Giang cho biết, Chương trình nông thôn miền núi đã tạo được điểm sáng về ứng dụng KH&CN vào sản xuất, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội thiết thực cho vùng nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Kết quả của Chương trình được duy trì và phát huy nhân rộng góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn cũng như thực hiện chương trình phát triển kinh tế - xã hội bền vững của địa phương. Hiệu quả của Chương trình đã được các cấp chính quyền và người dân đánh giá cao, nhân rộng trong thực tiễn.
Một số sản phẩm được giới thiệu tại Hội nghị
Với những kết quả đã đạt được, Chương trình đã mang liệu hiệu quả thiết thực về kinh tế, xã hội và môi trường. Cụ thể:
Về hiệu quả kinh tế, hầu hết các dự án đều đưa lại hiệu quả kinh tế trực tiếp một cách rõ rệt cho tổ chức chủ trì và thể hiện ở sự gia tăng doanh thu và lợi nhuận so với trước khi thực hiện dự án hoặc so với đơn vị không thực hiện dự án. Cơ chế đầu tư của Chương trình đã tạo ra phương thức thu hút nguồn vốn xã hội đầu tư cho sản xuất bằng việc yêu cầu bắt buộc phải có kinh phí đối ứng khi tổ chức chủ trì thực hiện dự án. Với cơ chế này, trong giai đoạn 2016-2020, Chương trình đã thu hút được hơn 1.800 tỷ đồng kinh phí từ nguồn vốn tự có của tổ chức chủ trì và các nguồn kinh phí khác để phục vụ cho sản xuất.
Các dự án được thực hiện thành công đã tạo ra sản phẩm xuất khẩu hay sản phẩm thay thế sản phẩm nhập khẩu. Việc ứng dụng công nghệ tiên tiến tạo ra sản phẩm mới có thể làm thay đổi cơ cấu sản xuất của một đơn vị sản xuất hay của một vùng sản xuất. Đặc biệt, các dự án đã mang lại hiệu quả kinh tế gián tiếp rất quan trọng đó là hiệu ứng lan tỏa: các dự án được Chương trình hỗ trợ thực hiện đã xây dựng các mô hình sản xuất là những hình mẫu về ứng dụng tiến bộ KH&CN có tính đại diện cho địa bàn triển khai, do chính người dân sau khi được tập huấn kỹ thuật trực tiếp thực hiện, đó chính là các điểm trình diễn cho các tổ chức và cá nhân người nông dân đến tham quan học tập, từ đó thu hút được nhiều doanh nghiệp, người nông dân mạnh dạn bỏ vốn đầu tư vào sản xuất.
Về hiệu quả xã hội, việc thực hiện các dự án của Chương trình đã mang lại hiệu quả xã hội rất lớn. Các dự án triển khai thu hút được nhiều lao động tham gia sản xuất, nhất là khi các mô hình áp dụng KH&CN được lan tỏa nhân rộng sẽ tạo thêm nhiều công ăn việc làm mới, góp phần đáng kể cho việc giải quyết lao động dôi dư ở nông thôn. Việc thực hiện các dự án đều đưa lại kết quả tốt, làm tăng năng suất và chất lượng của cây trồng, vật nuôi, từ đó tăng thu nhập cho doanh nghiệp và người dân tham gia dự án. Các dự án đã góp phần sản xuất bền vững, bình ổn giá cho người nông dân. Vì thế, các mô hình ứng dụng KH&CN nhanh chóng được nhân rộng, góp phần quan trọng vào việc xóa đói giảm nghèo ở các vùng nông thôn, chống được việc chuyển dịch lao động tự do từ nông thôn ra thành thị. Bên cạnh đó, Chương trình đã góp phần nâng cao trình độ nhận thức về sản xuất nông nghiệp theo phương thức công nghiệp với sự hỗ trợ của KH&CN, giúp người dân nhanh chóng tiếp thu những tiến bộ KH&CN mới trong và ngoài nước. Thông qua các dự án, đã đào tạo, phát triển được nguồn nhân lực có trình độ ở địa phương. Lực lượng này sẽ là nòng cốt để tiếp tục nhân rộng và phổ cập các kết quả của dự án khi cán bộ chuyển giao công nghệ rút khỏi địa bàn.
Về hiệu quả môi trường, các dự án đã tận dụng được các phế phụ phẩm trong sản xuất nông nghiệp (rơm rạ, bã mía, mùn cưa…) để sản xuất thành sản phẩm có giá trị sử dụng và trở thành hàng hóa bán ra thị trường. Qua đó, không chỉ doanh nghiệp sản xuất mà cả người dân sẽ có ý thức tận dụng, thu gom để cấp cho dự án, vừa có tác dụng tăng thu nhập, vừa góp phần giảm thiểu sự ô nhiễm môi trường trong nông thôn. Bên cạnh đó, các dự án sản xuất gạch không nung đã góp phần phát triển sản xuất và sử dụng vật liệu không nung để thay thế gạch đất sét nung, tiết kiệm đất nông nghiệp, giảm thiểu khí phát thải gây hiệu ứng nhà kính và ô nhiễm môi trường, giảm chi phí xử lý phế thải của các ngành công nghiệp, tiết kiệm nhiên liệu than, đem lại hiệu quả kinh tế chung cho toàn xã hội. Các dự án sản xuất rau, quả, chăn nuôi lợn, gia cầm an toàn theo VietGap, an toàn hữu cơ không chỉ giúp tạo ra sản phẩm an toàn, đảm bảo sức khỏe cho người tiêu dùng mà còn giúp giảm thiểu một lượng lớn thuốc bảo vệ thực vật, các chất hóa học ra môi trường, giảm phát thải từ sản xuất ra môi trường. Ngoài ra, các dự án xử lý nước, cấp nước sạch, tưới tiết kiệm nước đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe, cải thiện điều kiện sinh hoạt cho người dân, sử dụng hiệu quả tài nguyên nước cho những khu vực khí hậu khô hạn…
CT