Ca ghép gan đầu tiên cho bệnh nhi được thực hiện thành công tại Việt Nam.
Bệnh nhi được phát hiện khi đã ở giai đoạn muộn, khối u lớn lan tỏa, chiếm phần lớn thể tích gan, không có khả năng cắt bỏ vì còn quá ít thể tích gan lành. Phương pháp điều trị hóa chất và nút mạch hóa chất được tiến hành với hy vọng khống chế sự phát triển của khối u và tăng thể tích phần gan còn lại để có thể phẫu thuật loại bỏ. Tuy nhiên, cả 2 phương án này không đạt hiệu quả tối ưu khi thể tích khối u gan vẫn không thuyên giảm sau điều trị và xét nghiệm alphafetoprotein (chất chỉ thị đánh giá tình trạng ác tính của khối u) tăng lên từng ngày, đe dọa các biến chứng bất lợi cho tính mạng của bệnh nhi.
Trước tình hình đó, Bệnh viện Nhi Trung ương cùng với Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 đã tiến hành hội chẩn và quyết định lựa chọn phương án ghép gan để cứu sống bệnh nhi. Người hiến tặng gan chính là mẹ của bé, năm nay 41 tuổi.
Theo PGS.TS Phạm Duy Hiền - Phó Giám đốc Bệnh viện Nhi Trung ương: “Trở ngại lớn nhất mà các bác sỹ phải vượt qua là trường hợp ghép gan cho trẻ em đầu tiên trên nền một bệnh lý ác tính, nhiều nguy cơ biến chứng và rủi ro rất cao. Chính vì điều này, việc tầm soát các tổn thương xâm lấn sang các cơ quan khác là vô cùng quan trọng trước khi tiến hành thay thế gan bằng mảnh ghép gan mới. Các xét nghiệm tầm soát di căn trước phẫu thuật đã được tiến hành một cách thận trọng và tỉ mỉ, nhằm đưa ra các phương án phẫu thuật tối ưu”.
Một khó khăn rất lớn về chuyên môn trong ca ghép này là tình trạng khối u quá lớn, chiếm toàn bộ thể tích gan, đặc biệt có một phần u xâm lấn và chèn ép tĩnh mạch chủ. Thêm vào đó là tình trạng bất đồng nhóm máu hệ ABO giữa người cho và người nhận (cháu bé nhóm máu O nhưng người mẹ nhóm máu B).
Công tác chuẩn bị vô cùng cẩn thận, kĩ lưỡng.
Đại tá, TS Lê Văn Thành - Chủ nhiệm Khoa Phẫu thuật gan - mật - tụy (Bệnh viện Trung ương Quân đội 108) cho biết: “Trước phẫu thuật, chúng tôi đánh giá bệnh nhi có khối u lớn, có khả năng xâm lấn vào tĩnh mạch chủ, vì vậy việc phẫu thuật sẽ gặp khó khăn, chúng tôi đưa ra phương án có thể phải thay cả đoạn tĩnh mạch chủ dưới cho bệnh nhi. Và trong cuộc mổ, nhờ việc phẫu tích chính xác và xử lý tốt các mạch máu, chúng tôi không phải sử dụng phương án thay thế đoạn tĩnh mạch chủ dưới. Với sự quan tâm, chỉ đạo và sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa hai bệnh viện, tận dụng những kinh nghiệm trong ghép gan, gây mê hồi sức, tổ chức điều phối… ca phẫu thuật được thực hiện thành công”.
Nhằm hạn chế tối đa các phản ứng bất lợi về miễn dịch do bất đồng nhóm máu, các bác sỹ đã sử dụng các liệu pháp điều trị nội khoa trước ghép để bệnh nhi có thể sẵn sàng nhận mảnh ghép từ người mẹ. Các phương án dự phòng phản ứng thải loại sau ghép thường gặp ở những trường hợp ghép gan do bất đồng nhóm máu cũng đã được chuẩn bị rất cẩn thận.
Vượt qua những khó khăn về mặt kỹ thuật, những thiếu thốn về nhân lực, máu và chế phẩm máu trong đại dịch Covid-19, bằng sự chung tay của các y, bác sỹ và dòng máu hồng từ những tấm lòng nhân ái, ca phẫu thuật đã được thực hiện thành công. Người hiến tặng gan, mẹ bệnh nhi được ra viện sau 1 tuần phẫu thuật và 2 tuần sau đó, đại gia đình được đón bệnh nhi khỏe mạnh trở về.
Trước đó, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 đã ký hợp tác đào tạo, chuyển giao kỹ thuật ghép gan cho Bệnh viện Nhi Trung ương. Sau một thời gian, 2 bệnh viện đã tổ chức thực hiện thành công ca ghép này. Đây là ca ghép gan đầu tiên cho bệnh nhi ung thư gan được tiến hành thành công tại Việt Nam, mở ra triển vọng trong điều trị các căn bệnh hiểm nghèo.
Bắc Lê