Cung chưa đủ cầu
Theo báo cáo đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW về “Định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050” của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nước ta từ một nước xuất khẩu đã thực sự trở thành nước nhập khẩu năng lượng bắt đầu từ năm 2015 với mức độ ngày càng cao. Nếu năm 2015, năng lượng nhập khẩu chỉ chiếm 5%, thì đến năm 2017 đã lên đến 18% tổng cung năng lượng sơ cấp. Theo tính toán sơ bộ, để phục vụ nhu cầu tăng trưởng kinh tế, tiêu thụ năng lượng của Việt Nam sẽ liên tục gia tăng trong trung và dài hạn. Dự kiến, yêu cầu nguồn năng lượng sơ cấp cho đất nước sẽ cần đạt khoảng 175-195 triệu TOE vào năm 2030 và tăng lên 320-350 triệu TOE vào năm 2045. Do các giới hạn về trữ lượng và khả năng khai thác của các nguồn năng lượng nội địa (than - dầu - khí đốt), tỷ lệ năng lượng sơ cấp phải nhập khẩu đến năm 2045 có thể đạt tới 52%. Trước tình hình này, ngày 11/2/2020, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW về “Định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, với mục tiêu “bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia là nền tảng, đồng thời là tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội”. Nghị quyết cũng đã đưa ra 10 nhóm giải pháp, trong đó nhấn mạnh giải pháp “Đẩy mạnh hợp tác quốc tế; tích cực, chủ động xây dựng các đối tác chiến lược để thực hiện mục tiêu nhập khẩu năng lượng trong dài hạn và đầu tư tài nguyên năng lượng ở nước ngoài”. Ngoài việc xây dựng chiến lược nhập khẩu than, khí đốt và các sản phẩm dầu, chiến lược nhập khẩu điện từ các nước láng giềng như Lào, Trung Quốc, Campuchia cũng cần được xem xét như một nguồn cung cấp năng lượng quan trọng cho nền kinh tế. Mặc dù chủ trương nhập khẩu điện đã được đặt ra từ Quy hoạch điện V (QHĐ V năm 2000), nhưng sau 20 năm, chiến lược nhập khẩu điện từ các nước láng giềng hiện chưa rõ ràng và đồng bộ, sản lượng và công suất điện nhập khẩu vẫn còn rất khiêm tốn.
Thống kê cho thấy, nguồn điện năng nhập khẩu từ các nước láng giềng hiện nay chưa thể hiện vai trò đáng kể trong việc cân đối nguồn điện tại Việt Nam. Nước ta bắt đầu nhập khẩu điện của Trung Quốc từ năm 2004 thông qua đường dây (ĐZ) 110 kV Lào Cai - Hà Khẩu, cấp điện cho khu vực Lào Cai khoảng 380 triệu kWh. Trước nguy cơ thiếu điện giai đoạn 2007-2010, ngành điện đã xây dựng thêm 2 tuyến 220 kV Lào Cai - Hà Khẩu, Hà Giang - Malutang và 2 ĐZ 110 kV Móng Cái - Thâm Câu, Hà Giang - Thanh Thủy để tăng cường quy mô nhập khẩu. Sản lượng điện nhập từ Trung Quốc liên tục tăng và đạt đỉnh 5,6 tỷ kWh năm 2010 (chiếm 5,6% điện sản xuất hệ thống), bù đắp đáng kể cho lượng điện thiếu hụt trong nước. Trong giai đoạn này, mặc dù cả nước bị thiếu điện, dẫn tới cắt điện luân phiên, nhưng các tỉnh miền núi phía bắc vẫn đủ điện, hoạt động kinh tế bình thường do nhận nguồn điện nhập khẩu từ Trung Quốc. Nhiều thời điểm, điện nhập Trung Quốc còn được cấp đến tận tỉnh Bắc Giang. Từ khi thủy điện Sơn La đi vào vận hành (2010-2011), nước ta mới cơ bản đủ nguồn, sản lượng nhập khẩu ngày càng giảm. Điện năng nhập Trung Quốc hiện còn duy trì ở mức 1,6-2,2 tỷ kWh/năm.
Từ năm 2013, Việt Nam bắt đầu nhập khẩu thủy điện từ nam Lào qua ĐZ 220 kV Xê Ka Man 3 - Thạnh Mỹ (2013) và ĐZ 220 kV Xê Ka Man 1 - Pleiku 2 (2016). Tổng sản lượng nhập khẩu từ các thủy điện nam Lào trong giai đoạn 2013-2019 đạt 6,3 tỷ kWh. Nếu tính cả sản lượng nhập khẩu từ Trung Quốc trong cùng kỳ, điện năng nhập khẩu từ Lào và Trung Quốc đạt ~20 tỷ kWh, chiến tỷ trọng 1,6% tổng điện sản xuất hệ thống.
Mặc dù kế hoạch nhập khẩu điện từ các nước láng giềng xuất hiện từ QHĐ V (2000), QHĐ VI (2005) với quy mô dự kiến tới năm 2020 lên đến 5.476 MW [5, 6], nhưng đến thời điểm này, tổng công suất nhập khẩu mới đạt mức tối đa 1.506 MW (đạt 27%), trong đó nhiều hạ tầng lưới điện hiện khai thác cầm chừng như ĐZ 220 kV đấu nối thủy điện Xê Ka Man 3, các ĐZ 220 kV nhập khẩu điện về Lào Cai, Hà Giang. Lượng điện năng nhập khẩu từ Campuchia theo quy hoạch là 804 MW (thủy điện Hạ Sên San 2,3, Hạ Sê Rê Pok 2) nhưng đến nay chưa triển khai.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới việc nhập khẩu điện từ các nước láng giềng chưa đạt mục tiêu quy hoạch đề ra. Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là tình hình chính trị quốc tế liên tục biến động đã làm ảnh hưởng đến kế hoạch mở rộng xuất nhập khẩu điện qua biên giới. Những nghiên cứu tác động đến môi trường sinh thái, nhất là tại các dự án làm thay đổi dòng chính sông Mê Kông dẫn tới tạm dừng nhiều dự án thủy điện xuất khẩu của Lào và Camphuchia. Các rào cản kỹ thuật vận hành cũng ảnh hưởng đến quy mô nhập khẩu điện. Việc không cho phép hòa đồng bộ giữa hệ thống điện Việt Nam với Trung Quốc, Việt Nam với Lào đã dẫn tới phải vận hành tách toàn bộ lưới điện nhận nguồn tại Trung Quốc và Lào phát về Việt Nam. Bên cạnh đó, mức giá điện nhập khẩu cao hơn đáng kể so với mức giá mua điện trong nước cũng là một rào cản quan trọng, làm cho ngành điện chưa mặn mà với việc nhập khẩu. Theo số liệu thống kê, giá trần của thị trường phát điện cạnh tranh Việt Nam những năm gần đây đạt khoảng ~5,56 US cent/kWh. Mức giá này thấp hơn đáng kể so với khung giá trần nhập khẩu thủy điện từ Lào (6,95 US cent/kWh). Nếu tính cả chi phí đầu tư, xây dựng và vận hành các đường dây truyền tải, các dịch vụ phụ trợ đi kèm, cùng với ràng buộc mức giá bán điện bình quân thấp (7,5 US cent/kWh), rõ ràng điện nhập khẩu chưa đủ hấp dẫn để ngành điện tăng tốc quy mô nhập khẩu điện.
Giải pháp tăng cường nhập khẩu điện
Với những phân tích ở trên có thể nhận thấy, trọng tâm trong chiến lược nhập khẩu điện cần hướng đến là Lào và Trung Quốc. Ngoài ra, tương lai xa có thể xem xét xuất nhập khẩu điện từ mạng lưới 500 kV liên kết với ASEAN.
Giải pháp mang ý nghĩa căn cơ để tăng cường sản lượng điện nhập khẩu từ nước ngoài là phải khẩn trương xây dựng thị trường điện trong nước theo hướng cạnh tranh, bình đẳng, minh bạch có sự điều tiết của Nhà nước. Nếu giá điện phản ánh sát với giá thị trường thì việc nhập khẩu điện sẽ mang lại lợi nhuận tốt cho nhà đầu tư nguồn, lưới điện, là động lực rất lớn để các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư nguồn điện tại Lào, Trung Quốc và xuất khẩu về Việt Nam.
Thực tế diễn ra trong những năm gần đây cho thấy, hạ tầng lưới điện dùng chung cho việc nhập khẩu điện chưa được quan tâm đúng mức. Các công trình đường dây đấu nối được xây dựng dưới dạng “của ai người ấy lo”, gây lãng phí lớn về vốn đầu tư cũng như đất đai cho hành lang tuyến dây. Do vậy, cần có quy hoạch hệ thống hạ tầng truyền tải chuyên dụng dùng chung để nhập khẩu điện và có sự cam kết giữa các Chính phủ đối với việc xây dựng hạ tầng chung này.
Việc hình thành mạng lưới siêu cao áp liên quốc gia là xu hướng tất yếu trong tương lai để tăng cường an ninh cung cấp điện. Do vậy, các nước trong khu vực cần xem xét xây dựng hệ thống tiêu chuẩn vận hành chung để có thể kết nối và hòa đồng bộ lưới điện, tránh phải vận hành tách lưới đối với các công trình xuất nhập khẩu điện như hiện nay.
Để đáp ứng nhu cầu phát triển, Việt Nam sẽ ngày càng phụ thuộc vào năng lượng nhập khẩu, trong đó nhập khẩu điện có thể đóng vai trò đáng kể trong cân đối năng lượng quốc gia. Tuy nhiên, việc nhập khẩu điện đang còn gặp nhiều trở ngại từ quy trình, thủ tục rườm rà, cùng với mức giá điện bình quân thấp đang là rào cản rất lớn cho việc nhập khẩu điện. Giải pháp căn cơ để tăng cường công suất, sản lượng nhập khẩu là cần xây dựng thị trường điện cạnh tranh, bình đẳng, minh bạch trong nước, để giá điện phản ánh đúng giá thị trường, xóa bỏ bao cấp, độc quyền. Mức giá điện cao, lợi nhuận hấp dẫn sẽ thu hút được các nhà đầu tư nguồn điện tại Lào, Trung Quốc xuất khẩu điện sang Việt Nam. Các cam kết ở mức vĩ mô, dài hạn về xuất nhập khẩu điện giữa Việt Nam - Lào, Việt Nam - Trung Quốc cũng cần được xác nhận, là tiền đề để xây dựng hạ tầng truyền tải chuyên dụng dùng chung cho nhập khẩu điện dài hạn, giúp tối ưu hóa vốn đầu tư lưới điện và giảm thiểu quỹ đất cho đường dây truyền tải.