Thứ hai, 25/12/2023 14:47

Sản xuất giống cá dìa tại Thừa Thiên Huế

Nguyễn Quang Linh1, 6, Trần Vinh Phương2, 6, Nguyễn Duy Quỳnh Trâm1, Nguyễn Xuân Huy2, Nguyễn Văn Huy1, Hoàng Đình Trung3, Nguyễn Khoa Huy Sơn1, Trần Nguyên Ngọc1, Trần Thị Bách Thảo2, 6, Phan Toàn4, Bùi Nguyên Bình5

1Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế

2Đại học Huế

3Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế

4Công ty TNHH MTV Thương mại Thủy sản Quốc Thắng

5Công ty TNHH KH&CN Thanh Bình,

6Viện Công nghệ Sinh học, Đại học Huế

Hướng đến mục mục tiêu nhân rộng và phát triển mô hình sản xuất giống, cung cấp nuôi thương phẩm cá dìa và xây dựng chuỗi giá trị thực phẩm ngon, đặc sản ở vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, Thừa Thiên Huế theo hướng bền vững. Các nhà khoa học thuộc Viện Công nghệ Sinh học, Đại học Huế đã đề xuất và được Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) phê duyệt dự án “Sản xuất thử nghiệm giống nguồn gen cá dìa (Siganus guttatus)”, mã số: NVQG-2019/DA.18, giai đoạn 9/2019-8/2023. Thành công của dự án không chỉ góp phần hoàn thiện quy trình kỹ thuật sản xuất giống cá dìa, mà còn thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia phối hợp trong việc xây dựng mô hình sản xuất giống và nuôi thương phẩm loại cá này.

Thực trạng sản xuất giống cá dìa

Cá dìa là loài thủy sản nước lợ, mặn có giá trị kinh tế cao ở khu vực đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, Thừa Thiên Huế. Loài cá này có chất lượng thịt thơm, ngon, được thị trường ưa chuộng, giá bán cao. Đặc biệt, chúng dễ nuôi và tiêu tốn thức ăn thấp (chủ yếu là thực vật và bùn bã hữu cơ). Cá dìa cũng là đối tượng thủy sản được tỉnh Thừa Thiên Huế đưa vào khung các nhiệm vụ bảo tồn nguồn gen giai đoạn 2021-2025 và là đối tượng nuôi chủ lực ở vùng đầm phá của tỉnh.

Từ năm 2005 đến nay, cá dìa đã được nhiều tổ chức quan tâm đầu tư nghiên cứu về sinh sản nhân tạo và xây dựng thương hiệu “cá dìa Tam Giang”. Tuy nhiên, đến nay việc nghiên cứu sản xuất giống cũng như xây dựng mô hình sản xuất giống cá dìa phù hợp với điều kiện Thừa Thiên Huế vẫn còn hạn chế. Việc sản xuất giống và xây dựng mô hình sản xuất giống thành công sẽ giúp cung cấp con giống có chất lượng cao phục vụ các hộ nuôi cá dìa khu vực đầm phá Tam Giang và vùng lân cận. Do đó, nhóm nghiên cứu thuộc Viện Công nghệ Sinh học, Đại học Huế đã đề xuất và được Bộ KH&CN phê duyệt dự án “Sản xuất thử nghiệm giống nguồn gen cá dìa (Siganus guttatus)”, mã số: NVQG-2019/DA.18. Nhóm nghiên cứu đã phối hợp với 2 doanh nghiệp có tiềm lực về cơ sở vật chất trong sản xuất giống thủy sản nước lợ, mặn là Công ty TNHH MTV Thương mại Thủy sản Quốc Thắng và Công ty TNHH KH&CN Thanh Bình để xây dựng mô hình sản xuất giống cá dìa trên địa bàn. Mục tiêu chính của dự án là: i) tạo ra con giống có chất lượng và ổn định môi trường nuôi ở vùng đầm phá, cung cấp cho các hộ dân nuôi thương phẩm; ii) nhân rộng mô hình sản xuất giống cá dìa trên địa bàn tỉnh để giảm lệ thuộc vào con giống khai thác từ tự nhiên.

Xây dựng thành công kỹ thuật và mô hình sản xuất giống cá dìa

Để thực hiện đề tài, nhóm nghiên cứu đã xây dựng 3 mô hình. Mô hình 1 thực hiện tại đơn vị chủ trì, mô hình 2 và 3 thực hiện tại đơn vị phối hợp là Công ty TNHH MTV Thương mại Thủy sản Quốc Thắng và Công ty TNHH KH&CN Thanh Bình.

Qua đó, nhóm nghiên cứu đã thực hiện kỹ thuật nuôi vỗ cá bố mẹ trong lồng ở đầm, sử dụng thức ăn là các thực phẩm tươi (cá tạp trộn cùng thức ăn công nghiệp, bổ sung rong, lysine và methyonie). Trong khi cho ăn, có thể điều chỉnh lượng thức ăn tùy theo khả năng bắt mồi của cá, tránh dư thừa làm ô nhiễm nước. Định kỳ hàng tháng kiểm tra sự thành thục cá bố mẹ để tuyển chọn cá thể đủ điều kiện tham gia sinh sản.

Nhóm nghiên cứu đã tuyển chọn cá bố mẹ thành thục có khối lượng từ 400-500 g/con. Tỷ lệ đẻ đực/cái là 1:1 hoặc 1:2, mật độ sinh sản 3-5 cặp/5m3. Trong quá trình sinh sản cá dìa, nhóm nghiên cứu tiến hành song song cả hai phương pháp: kích thích sinh sản tự nhiên và tiêm hormone (tùy vào thời điểm và khả năng thành thục của trứng). Do cá dìa là loài đẻ theo chu kỳ trăng, nên khi kích thích cá đẻ, nhóm nghiên cứu tuyển chọn cá vào buổi sáng sớm, đến tối (20-22 giờ) tiến hành kích thích cá đẻ, vào lúc 3-4 giờ sáng; khi cần, sử dụng hormon HCG (5.000 IU/kg) cho cá cái và ½ liều cho cá đực (2-3 liều tùy theo tình hình phát triển của buồng trứng). Tỷ lệ cá đẻ dao động từ 75-100%. Bể cho cá đẻ thể tích từ 4-5 m3 hoặc 0,5-2 m3, tùy vào điều kiện cơ sở trang thiết bị của cơ sở sản xuất giống, chất liệu bằng xi măng hoặc composite/nhựa, độ sâu 1,2-1,5 m.

Đối với việc ương cá bột trong ao: nhóm nghiên cứu thực hiện trên diện tích từ 500-800 m2, vệ sinh và cấp nước biển qua lưới lọc trước khi cho vào ao. Quá trình gây màu nước và tạo hệ động vật phù du tự nhiên trong ao được thực hiện trước khi thả cá bột khoảng 20 ngày. Quá trình gây màu ao ương và tạo hệ thức ăn tự nhiên được thực hiện như sau: cá tạp xay nhỏ, rỉ mật, bột cám gạo và chế phẩm sinh học EM được ủ kị khí với tỷ lệ 1:1:1:1 trong vòng 1 tuần cho đến khi lên men. Men vi sinh sau khi ủ đạt chất lượng (có mùi thơm đặc trưng) sẽ được tạt xuống ao 2 ngày/lần vào lúc 8 giờ sáng và 14 giờ chiều trong vòng 1 tuần. Trong các ngày tiếp theo, thức ăn bột tôm độ có đạm xấp xỉ 40% được xay nhỏ hòa tan trong nước và tạt định kỳ xuống ao 1 lần/ngày. Màu nước và thành phần hệ động vật phù du sẽ được thu mẫu kiểm tra trước khi đưa cá dìa bột xuống ao ương. Thức ăn tươi sống có mật độ 25 cá thể/ml. Trong suốt 20 ngày đầu, ao ương được bổ sung nước biển hằng ngày nhằm thay thế lượng nước hao hụt do quá trình bốc hơi và duy trì sự ổn định về màu nước và độ mặn trong ao. Trong 15 ngày đầu, ao ương sẽ được bổ sung định kỳ men vi sinh 2 ngày/lần nhằm duy trì ổn định hệ thức ăn tự nhiên trong ao.

Sau 20 ngày nuôi, cá dìa chuyển sang giai đoạn cá hương, có thể quan sát được bằng mắt thường (hình 1). Trong giai đoạn này, ao ương được bổ sung thêm copepoda sinh khối được thu từ tự nhiên hay từ các ao đất nuôi tôm. Copepoda được làm sạch và khử khuẩn bằng iodine trước khi thả vào ao cho cá bột ăn. Lượng copeoda bổ sung dao động từ 2-3 kg trọng lượng ướt/500 m2. Sau 30 ngày nuôi, ao ương được bổ sung ấu trùng artermia và artermia đông lạnh trước khi tập cho ăn bằng thức ăn bột dạng mảnh INVE NRD1/2 tại ngày nuôi thứ 45.

Hình 1. Các giai đoạn phát triển của cá dìa (Siganus guttatus).

Đối với mô hình sản xuất cá dìa, nhóm nghiên cứu định kỳ hàng tháng kiểm tra mức độ thành thục của cá bố mẹ (hình 2, 3) tại các mô hình để có phương án chuẩn bị cho việc sản xuất giống.

Hình 2. Vuốt sẹ cá đực.               Hình 3. Thăm trứng cá cái.

Bảng 1. Tổng hợp kết quả chỉ tiêu sinh sản cá dìa trong 2 năm.

Năm

KLTB cá cái (kg)

TLĐ (%)

TLTT (%)

TLN (%)

NSCB (vạn/kg)

TLS cá bột lên cá hương (%)

TLS cá hương lên cá giống (%)

Kích cỡ (cm)

2022

495,74

86,00

86,75

95,5

76,62

5,15

73,5

3-7

2023

518,5

94,64

82,14

91,71

36,78

5,05

72,21

3-6

Tổng hợp

507,12±11,38

90,32±4,32

84,45±2,30

93,61±1,89

56,70±19,92

5,10±0,05

72,86±0,64

3-7

Ghi chú: Số lượng trên là giá trị trung bình (mean) và độ lệch chuẩn (SD); KLTB: khối lượng trung bình; TLĐ: tỷ lệ đẻ; TLTT: tỷ lệ thụ tinh; TLN: tỷ lệ nở: NSCB: năng suất cá bột; TLS: tỷ lệ sống.

Bảng 1 cho thấy, các chỉ tiêu sinh sản cá dìa trong 2 năm của các mô hình là tương đương nhau và đều đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật đề ra. Khối lượng trung bình của cá cái tham gia sinh sản đạt 507,12 g/con, tỷ lệ đẻ trung bình đạt 90,32%; tỷ lệ thụ tinh trung bình đạt 84,45%; tỷ lệ nở trung bình đạt 93,61%; năng suất cá bột trung bình đạt 56,70 vạn cá/kg cá cái, tỷ lệ sống từ giai đoạn cá bột đến cá hương (30 ngày tuổi) trung bình đạt 5,1% và từ giai đoạn cá hương lên cá giống trung bình đạt 72,86%, với cá giống sau 56-60 ngày ương đạt kích thước 3-5 cm/con.

Bảng 2. Tổng hợp số lượng cá đẻ trong 2 năm 2022-2023 của 3 mô hình.

Đợt đẻ

Mô hình

Tổng hợp theo năm

1

2

3

2022

101.660

41.780

72.842

216.282

2023

150.926

152.229

102.545

405.700

Tổng cộng

252.586

194.009

175.387

621.982

Hình 4. Mô hình ương cá dìa hương trong bể                Hình 5. Cá dìa giống của dự án.

Từ kết quả trên có thể khẳng định, dự án đã xây dựng thành công kỹ thuật và 3 mô hình sản xuất giống cá dìa, nhờ sự kết hợp các biện pháp kỹ thuật khác nhau trong ương cá giống, nhất là giai đoạn từ cá bột lên cá hương (hình 4, 5). Thành công của dự án không những góp phần quan trọng trong việc giúp chủ động cung cấp nguồn giống cá dìa cho người dân mà còn góp phần quan trọng trong việc phát triển nghề nuôi thủy sản nước lợ, mặn một cách bền vững. Đặc biệt, cá dìa là giống cá biển khó khăn trong tạo giống, trước đây chưa có cơ sở trong nước nào thành công trong sản xuất giống cá này.

 

 

Đánh giá

X
(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)