Thứ tư, 21/10/2020 15:09

Tăng trưởng kinh tế cả năm của Việt Nam được dự báo ở mức 2,6-2,8%

Việt Nam là một trong số ít các quốc gia trên thế giới có mức tăng trưởng kinh tế dương trong quý III/2020 (đạt 2,62%). Tính chung 9 tháng đầu năm, GDP tăng 2,12%. Tại buổi Tọa đàm công bố Báo cáo kinh tế vĩ mô quý III/2020 do Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) thuộc Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức ngày 21/10/2020, các chuyên gia dự báo, tăng trưởng kinh tế cả năm của Việt Nam được dự báo ở mức 2,6-2,8% nếu dịch COVID-19 không bùng phát trong những tháng còn lại. Các chuyên gia cũng đánh giá tác động của một số chính sách mà Chính phủ đã áp dụng trong bối cảnh dịch COVID-19 đồng thời có những khuyến nghị cụ thể trong bối cảnh sắp tới.

Một số chỉ tiêu cơ bản của kinh tế vĩ mô Việt Nam 9 tháng đầu năm

Do dịch COVID-19, các nền kinh tế lớn trên thế giới đều chịu ảnh hưởng nặng nề, đa số có mức tăng trưởng quý II âm so với cùng kỳ năm 2019. Nguy cơ đại dịch có thể bùng phát mạnh trở lại vào mùa thu và đông gây nhiều trở ngại cho nền sản xuất trong thời gian còn lại của năm 2020 hoặc sang năm 2021. Các nền kinh tế châu Âu đang phải đối mặt với các vấn đề nghiêm trọng liên quan đến tỷ lệ thất nghiệp gia tăng và sản xuất bị thu hẹp. Toàn bộ nền kinh tế Nhật Bản suy giảm mạnh trong 9 tháng đầu năm sau những khó khăn đã tích lũy từ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung. Kinh tế Trung Quốc trong quý II bắt đầu cho thấy sự phục hồi, trong khi các nước khác trong khối BRICS và ASEAN-5 ghi nhận mức tăng trưởng âm.

Trước ảnh hưởng nghiêm trọng của COVID-19 lên kinh tế toàn cầu, Việt Nam là một trong số ít các quốc gia trên thế giới có mức tăng trưởng kinh tế dương trong quý III/2020, đạt 2,62%. Tính chung 9 tháng đầu năm, GDP tăng 2,12%.

Trong chín tháng đầu năm, cả nước có gần 99.000 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, giảm 3,2% về số doanh nghiệp, tăng 10,7% về vốn đăng ký và giảm 16,3% về số lao động so với 9 tháng đầu năm 2019. Số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn tăng 81,8% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 tăng 2,98%, lạm phát bình quân 9 tháng đầu năm 2020 ở mức 3,85% do giá dịch vụ ăn uống, lương thực, thực phẩm tăng. Tỷ giá trung tâm tại Ngân hàng nhà nước (NHNN) gần như đi ngang trong suốt quý III/2020. Tỷ giá tại các ngân hàng thương mại (NHTM) có xu hướng tương tự. Tỷ giá có thể giữ mức thấp đến hết năm do VND khó giảm mạnh giá trị so với đồng USD, một phần vì đồng USD đang có xu hướng suy yếu. Nhìn chung, giá vàng trong nước đang theo sát những bước tiến của giá vàng thế giới. Với triển vọng kinh tế toàn cầu ảm đạm, dự báo trong quý tới giá vàng trong nước vẫn ở mức cao.

Triển vọng năm 2020

Dự báo tăng trưởng kinh tế cả năm 2020 của Việt Nam nằm trong khoảng 2,6-2,8% khi việc kiểm soát hoàn toàn dịch COVID-19 trong các tháng còn lại của năm diễn ra thuận lợi như hiện nay. Tuy nhiên, nếu có những diễn biến bất lợi đột ngột xuất hiện trong những tháng cuối năm, nền kinh tế có thể chỉ tăng trưởng 1,8-2% hoặc thấp hơn cho cả năm 2020.

Triển vọng kinh tế Việt Nam trong năm 2020 phụ thuộc vào khả năng khống chế bệnh dịch không chỉ trong nước mà còn trên thế giới. Những yếu tố có thể hỗ trợ cho tăng trưởng trong phần còn lại của năm bao gồm kỳ vọng về triển vọng kinh tế do việc hoàn tất ký kết Hiệp định thương mại tự do và bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam và EU (EVFTA và IPA) đem lại; tiến độ giải ngân và thi công các dự án đầu tư công trọng điểm được đẩy nhanh như mong đợi; chi phí nguyên nhiên vật liệu duy trì ở mức thấp do suy giảm nhu cầu tiêu thụ và sản xuất; làn sóng dịch chuyển đầu tư nhằm phân tán rủi ro từ thương chiến Mỹ - Trung và tận dụng các ưu đãi đầu tư tại Việt Nam; môi trường vĩ mô ổn định, lạm phát kiểm soát được ở mức trung bình, tạo điều kiện tốt cho việc thực thi các chính sách hỗ trợ tăng trưởng. Tuy vậy, Việt Nam cũng đang gặp nhiều rủi ro và thách thức trong một môi trường kinh tế thế giới bất trắc. Sự tái bùng phát của COVID-19 tại nhiều nước đi kèm với các biện pháp phong tỏa có thể kéo dài thời gian đứt gãy của chuỗi cung ứng; xung đột địa chính trị giữa các nước lớn có thể khiến một nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam đối diện những rủi ro bất ngờ. Bên cạnh đó, điểm yếu của kinh tế Việt Nam còn đến từ các rủi ro nội tại như mất cân đối tài khóa lớn, tốc độ và mức độ đầu tư phát triển, đặc biệt là hạ tầng, bị chững lại; sức khỏe hệ thống ngân hàng - tài chính tuy dần được củng cố nhưng còn dễ tổn thương; sự phụ thuộc nặng nề của tăng trưởng vào khu vực FDI, thiếu tự chủ công nghệ và nguyên liệu; chất lượng lao động thấp; hiệu quả đầu tư công thấp và tình trạng nhũng nhiễu của bộ máy công quyền còn nặng nề; tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) bị ngưng trệ, môi trường và thể chế kinh doanh chất lượng còn thấp.

Cân nhắc những yếu tố tích cực cũng như tiêu cực đang tác động đối với kinh tế Việt Nam hiện nay, các chuyên gia đã đưa ra các dự báo về tăng trưởng theo các kịch bản khác nhau về tình hình phòng chống bệnh dịch. Với điều kiện dịch COVID-19 tiếp tục được khống chế ổn định ở trong nước và kinh tế thế giới bắt đầu khởi sắc do các biện pháp phong tỏa được dần gỡ bỏ, kinh tế Việt Nam có thể đạt mức tăng trưởng trong khoảng 2,6-2,8% trong cả năm 2020. Trong trường hợp bất lợi hơn khi các nước đối tác của Việt Nam phải tái áp dụng các biện pháp phong tỏa, kinh tế Việt Nam có thể chỉ tăng trưởng trong khoảng 1,8-2,0%.

Đánh giá tác động của chính sách và khuyến nghị

Do bị ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19, Chính phủ đã có những chính sách kịp thời nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân khắc phục khó khăn để phát triển sản xuất kinh doanh trong bối cảnh mới. Cụ thể là NHNN đã 3 lần hạ các công cụ lãi suất điều hành; gói hỗ trợ tín dụng 250.000 tỷ đồng vẫn đang được các NHTM triển khai; gói hỗ trợ trị giá 62.000 tỷ đồng hỗ trợ người lao động, doanh nghiệp khó khăn vì dịch COVID-19; các biện pháp hỗ trợ về mặt pháp lý cũng được ban hành để hỗ trợ cho hoạt động sản xuất và kinh doanh như gia hạn nợ, giảm lãi vay, không phân loại lại nhóm nợ, giảm phí; Quốc hội đã quyết nghị chuyển đổi phương thức đầu tư của 3 dự án thành phần trong dự án đường cao tốc Bắc - Nam (từ đầu tư theo phương thức đối tác công tư sử dụng một phần vốn ngân sách nhà nước sang đầu tư công sử dụng toàn bộ vốn ngân sách nhà nước)… Sau nhiều tháng triển khai, các chính sách này đã bước đầu cho thấy tác động tích cực. Đến ngày 14/9/2020, các tổ chức tín dụng đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho trên 271.000 khách hàng với dư nợ 321.000 tỷ đồng; miễn, giảm, hạ lãi suất cho gần 485.000 khách hàng với dư nợ 1,18 triệu tỷ đồng. Với việc mặt bằng lãi suất cho vay giảm mạnh hỗ trợ chi phí vốn của doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng đã cho vay mới với lãi suất ưu đãi (thấp hơn phổ biến 0,5-2,5% so với trước dịch) khoảng 1,6 triệu tỷ đồng cho 310.000 khách hàng. Tính đến giữa tháng 9, tăng trưởng tín dụng đạt 10,19%. Mặt khác, số hồ sơ gia hạn nộp thuế ít hơn kỳ vọng. Tính đến 28/7 (hạn cuối là 30/7), toàn hệ thống thuế đã tiếp nhận được hơn 171.555 giấy đề nghị gia hạn với tổng số tiền thuế được gia hạn là 53.400 tỷ đồng. Số giấy đề nghị gia hạn của doanh nghiệp là 119.119 giấy đề nghị (chiếm xấp xỉ 17% so với 700.000 doanh nghiệp hoạt động); số giấy đề nghị của cá nhân kinh doanh là 52.436 giấy đề nghị. Số doanh nghiệp được thụ hưởng chính sách không đáng kể do nhiều doanh nghiệp đã thực hiện các nghĩa vụ thuế trước giai đoạn được gia hạn từ tháng 3/2020.

Bên cạnh mặt tích cực, chính sách hỗ trợ tín dụng cho doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của dịch bệnh cũng đang cho thấy nhiều bất cập trong việc thực thi, khi doanh nghiệp muốn tiếp cận nguồn hỗ trợ này phải đáp ứng các thủ tục phức tạp với chi phí lớn, như lập báo cáo kiểm toán, đánh giá thiệt hại, tự chứng minh thanh khoản và khả năng trả nợ sau khi được cơ cấu lại nợ... Với các thủ tục nói trên, nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ (nhóm cần hỗ trợ nhất) có thể lại là nhóm khó tiếp cận chính sách nhất. Theo tính toán của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), cho đến giữa tháng 9, chỉ có khoảng 3% doanh nghiệp nhận được hỗ trợ từ gói 250.000 tỷ đồng. Nguyên nhân của tình trạng này là có sự đùn đẩy, sợ trách nhiệm của bộ phận triển khai, khiến tiến độ hỗ trợ bị chậm trễ.

Chính sách hỗ trợ chi phí cho doanh nghiệp cũng kém hiệu quả do thủ tục phức tạp và các điều kiện ngặt nghèo. Chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người lao động cũng chưa cho thấy hiệu quả trong thực tế. Tính đến giữa tháng 8/2020, chỉ hơn 16 triệu người thuộc các nhóm đối tượng lao động nhận được hỗ trợ, với tốc độ giải ngân chỉ đạt hơn 17.000 tỷ đồng (chiếm 19%). Trong đó, nhóm được hỗ trợ đa phần là nhóm lao động thuộc khối bảo trợ, lao động là người có công, hộ nghèo. Trong khi đó, lao động chịu tác động mạnh nhất là người lao động tự do, lao động yếu thế thuộc khối phi chính thức lại không tiếp cận được với gói hỗ trợ này. Việc thực thi các chính sách hỗ trợ trực tiếp gặp rào cản lớn do chưa có cơ sở dữ liệu để quản lý thông tin về người được hưởng hỗ trợ, dẫn đến việc thủ tục đăng ký nhận hỗ trợ được thiết kế quá phức tạp, gây bất tiện cho người dân.

Theo các chuyên gia, do nguồn lực tài khóa hạn hẹp sau nhiều năm thâm hụt ngân sách, cùng với việc chính sách tiền tệ bị ràng buộc với các mục tiêu về lạm phát và tỷ giá, Việt Nam không thể theo đuổi các chính sách vĩ mô theo cách tương tự như các nước khác trên thế giới, ví dụ như nới lỏng tiền tệ quy mô lớn. Thêm vào đó, việc phòng chống dịch COVID-19 và trợ cấp an sinh xã hội do ảnh hưởng của dịch bệnh cũng đang tạo áp lực lớn lên cán cân ngân sách. Ưu tiên hàng đầu lúc này là đảm bảo an sinh xã hội, giữ ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, giảm gánh nặng cho các doanh nghiệp phải tạm dừng hoạt động và hỗ trợ các doanh nghiệp còn hoạt động.

Vũ Hưng

 

Đánh giá

X
(Di chuột vào ngôi sao để chọn điểm)