
Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại Hội thảo (nguồn: Thùy Dương/VNU Media).
Tại Hội thảo, đại diện nhóm tác giả của BCKTTN 2025 trình bày những kết quả chính của Báo cáo, trong đó tập trung vào một số nội dung chính: Toàn cảnh kinh tế thế giới năm 2024 và gần nửa đầu năm 2025, tổng quan về một số nền kinh tế lớn và có mối quan hệ chặt chẽ với Việt Nam, triển vọng kinh tế thế giới năm 2025 những căng thẳng thương mại gần đây có tác động đến Việt Nam cũng như các quốc gia đối tác; tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2024 và gần nửa đầu năm 2025: về tăng trưởng kinh tế như tình hình sản xuất công nghiệp, lạm phát, cung tiền tệ, tài chính, cải cách thể chế và các chính sách lớn của Đảng và Chính phủ; đồng thời phân tích thuế quan và một số rủi ro trước tình hình căng thẳng thương mại trong thời gian vừa qua; xác định động lực tăng trưởng của Việt Nam trong giai đoạn tới trên cơ sở soi chiếu mô hình tăng trưởng của Việt Nam (theo phía cung và phía cầu) với mô hình tăng trưởng kinh tế của các quốc gia Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Trung Quốc trong giai đoạn tăng trưởng cao và kinh nghiệm chính sách của các quốc gia này; phân tích chính sách công nghiệp của Việt Nam, chỉ ra những kết quả đạt được cũng như những thách thức trong thời gian qua; đồng thời đánh giá thực trạng phát triển khu vực tư nhân, từ đó đề ra các chính sách công nghiệp thúc đẩy sự phát triển của khu vực tư nhân.
Kết thúc Hội thảo, lãnh đạo Trường Đại học Kinh tế đã đưa ra một số kết luận nhằm gợi mở một số khuyến nghị chính sách quan trọng:
Thứ nhất, trong ngắn hạn, cần kiên định tư duy phát triển bền vững, tránh chủ nghĩa thành tích và nóng vội trong điều hành vĩ mô. Tránh tư duy nóng vội, chủ quan duy ý chí chạy theo KPI tăng trưởng, các chính sách vĩ mô cần ban hành một cách cẩn trọng, có đánh giá tác động đa chiều và có lộ trình cụ thể. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thể chế kinh tế theo hướng tinh gọn, hiện đại, hiệu lực và hiệu quả, bảo đảm tính minh bạch, dễ hiểu và dễ thực thi nhằm giảm rủi ro kinh doanh và chi phí tuân thủ, chi phí ngầm. Thúc đẩy đồng bộ tổng cung và tổng cầu, nhất là các động lực phát triển bền vững của nền kinh tế dựa trên các mô hình tăng trưởng mới và gắn với xu hướng thương mại đầu tư toàn cầu. Đặc biệt, cần tập trung khơi thông các mô hình tăng trưởng mới dựa trên khoa học, công nghệ, kinh tế số, kinh tế xanh và chuyển đổi số. Với những rủi ro ngắn hạn, đảm bảo dư địa chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, kìm chế lạm phát, để hỗ trợ hoạt động kinh tế trong nước và các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương. Chính sách công nghiệp trong thời gian tới cần có tính chọn lọc và thực tiễn cao, tập trung vào: Tháo gỡ khó khăn của doanh nghiệp/khu vực tư nhân; xây dựng và triển khai hệ thống theo dõi, đánh giá chính sách; đảm bảo nguồn dữ liệu thống kê công nghiệp phục vụ phân tích chính sách; chuyên môn hoá của địa phương và hợp tác vùng trong chính sách đầu tư và phát triển hạ tầng.
Thứ hai, trong trung, dài hạn, cần nâng cao trình độ và kỹ năng cho lực lượng lao động và phát triển khoa học, công nghệ nhằm cải thiện năng lực cạnh tranh (tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững). Trong dài hạn, xây dựng chiến lược và thực hiện các chính sách đầu tư phát triển công nghiệp và công nghệ trọng điểm có mục tiêu, có trọng tâm, đồng thời đảm bảo việc giải ngân đầu tư công một cách có hiệu quả, kết hợp các nguồn lực tư nhân trong nước và các nguồn vốn FDI trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung, các ngành công nghiệp nói riêng. Đặc biệt, quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và các ngành công nghiệp phải được triển khai đồng bộ với chiến lược chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, hướng đến mô hình tăng trưởng xanh, tuần hoàn và bao trùm.
VVH