
Đổi mới sáng tạo trong sản xuất chế biến và tiêu thụ cà phê đang trở thành yếu tố quyết định sự phát triển bền vững của ngành cà phê tỉnh Đắk Lắk.
Đổi mới sáng tạo là yếu tố cốt lõi trong phát triển bền vững
Trong công tác tạo chọn giống
Theo nghiên cứu từ Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên, việc ứng dụng công nghệ đổi mới sáng tạo vào quá trình chọn tạo giống cà phê phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng từng vùng đóng vai trò then chốt, quyết định trực tiếp đến năng suất và thành bại của mỗi vụ thu hoạch. Trong đó, tại Đắk Lắk, 9 dòng cà phê vối (TR4, TR5, TR6, TR7, TR8, TR9, TR11, TR12, TR13) đã được lai tạo và tuyển chọn thành công, cho năng suất ấn tượng từ 4,2-7 tấn nhân/ha. Những giống này không chỉ sở hữu chất lượng vượt trội với tỷ lệ hạt loại 1 đạt trên 65%, mà còn thể hiện khả năng kháng cao bệnh gỉ sắt, góp phần nâng cao giá trị cạnh tranh của cà phê Việt trên thị trường xuất khẩu.
Đáng chú ý, 4 dòng TR9, TR11, TR12, TR13 thuộc nhóm chín muộn, giúp chuyển dịch thời vụ thu hoạch vào mùa khô. Lợi ích kép từ giải pháp này bao gồm hạn chế rủi ro thất thoát do mưa trong giai đoạn phơi sấy, đảm bảo chất lượng hạt, tiết kiệm đáng kể lượng nước tưới cho cây trong điều kiện khô hạn. Đây được xem là hướng đi bền vững, phù hợp với xu thế phát triển nông nghiệp thích ứng biến đổi khí hậu tại Tây Nguyên.
Trong công tác tái canh và sản xuất cà phê bền vững
Tại tỉnh Đắk Lắk hiện đang áp dụng phổ biến 4 loại chứng nhận cà phê: 4C (Bộ quy tắc chung cho cộng đồng cà phê), UTZ Certified, RFA (Liên minh rừng nhiệt đới) và FLO (Thương mại công bằng). Tổng diện tích cà phê đạt chứng nhận là 30.317 ha, với tổng sản lượng 100.000 tấn. Đến nay, Chỉ dẫn địa lý "Buôn Ma Thuột" đã được cấp cho 16 tổ chức sử dụng cho sản phẩm cà phê Robusta, với sản lượng 24.600 tấn cà phê nhân trên diện tích 7.994 ha, cùng với 238 tấn cà phê hạt rang và 170 tấn cà phê bột.
Trong cấp quyền Chỉ dẫn địa lý
Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Đắk Lắk đã trao quyền sử dụng Chỉ dẫn địa lý “Buôn Ma Thuột” sản phẩm cà phê cho các tổ chức, cá nhân với sản lượng 24.600 tấn trên diện tích 7.994 ha (thuộc địa bàn các huyện, thị xã, thành phố: Krông Pắc, Krông Búk, Buôn Hồ, Krông Ana, Buôn Ma Thuột, Krông Năng, Cư M’gar, Buôn Đôn), 241 tấn cà phê hạt rang và 174 tấn cà phê bột.
Hiệp hội cà phê Buôn Ma Thuột được UBND tỉnh ủy quyền thực hiện các giao dịch pháp lý quốc tế khi gia hạn bảo hộ, chuyển đổi hình thức bảo hộ hoặc bảo hộ mới ở một số thị trường quan trọng. Đây là nhiệm vụ phức tạp nhưng thời gian qua Hiệp hội hết sức nỗ lực hoành thành. Cà phê “Buôn Ma Thuột” là Chỉ dẫn địa lý cà phê duy nhất của Việt Nam được bảo hộ tại 32 quốc gia. Cụ thể, bảo hộ dưới hình thức “Chỉ dẫn địa lý” tại 28 quốc gia: gồm 27 quốc gia trong khối EU sau khi Hiệp định song phương EVFTA có hiệu lực từ tháng 07/2020 và Thái Lan; bảo hộ dưới hình thức “Nhãn hiệu tập thể” tại 3 quốc gia: Trung Quốc, Singapore, Canada, bảo hộ dưới hình thức “Tên gọi xuất xứ hàng hóa” tại Nga.
Nguồn gốc sản phẩm cà phê có Chỉ dẫn địa lý “Buôn Ma Thuột” đều có hệ thống hồ sơ và truy xuất dễ dàng. Hồ sơ truy nguyên nguồn gốc nguyên liệu đầu vào (cà phê nhân), các đơn vị đều có hóa đơn chứng từ mua bán đối với các đơn vị mua nguyên liệu.
Chất lượng sản phẩm đảm bảo các yếu tố về đặc tính địa lý của sản phẩm cuối cùng, đảm bảo tiêu chí về xuất khẩu cà phê bền vững, vệ sinh an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Các dòng sản phẩm được sử dụng Chỉ dẫn địa lý “Buôn Ma Thuột” ở các đơn vị được trao quyền đều có tỷ lệ phối trộn nguyên liệu cà phê nhân Robusta “Buôn Ma Thuột” >=70% và được gắn logo Chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma Thuột trên bao bì sản phẩm. Chất lượng sản phẩm đáp ứng yêu cầu về chỉ tiêu công bố, việc ghi nhãn đúng quy định.
Vùng Chỉ dẫn địa lý với tổng diện tích 107.000 ha, trải rộng trên các huyện Cư M'gar, Ea H'leo, Krông Ana, Krông Búk, Krông Pắc, Krông Năng và thành phố Buôn Ma Thuột, sở hữu những đặc điểm tự nhiên lý tưởng cho sự phát triển của cây cà phê. Nhờ lợi thế về thổ nhưỡng, khí hậu và bề dày lịch sử canh tác, các sản phẩm cà phê mang thương hiệu và Chỉ dẫn địa lý của tỉnh ngày càng khẳng định vị thế trên thị trường, đóng góp quan trọng vào việc đưa Việt Nam trở thành quốc gia xuất khẩu cà phê Robusta lớn nhất thế giới.
Mặc dù vậy, quá trình phát triển cà phê tại vùng Chỉ dẫn địa lý Đắk Lắk đang đối mặt với những thách thức không nhỏ trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu. Mặc dù sản lượng cà phê tăng trưởng, nhưng chất lượng và hiệu quả kinh tế chưa tương xứng, dẫn đến sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế còn hạn chế. Sự phân chia lợi ích trong chuỗi giá trị chưa đồng đều, người trồng cà phê chịu nhiều chi phí đầu tư nhưng lợi nhuận thu về còn thấp, trong khi phần lớn lợi nhuận tập trung ở các doanh nghiệp. Đáng chú ý, tác động của biến đổi khí hậu đang làm thay đổi các quy luật thời tiết, gây nguy cơ suy giảm nguồn nước ngầm, ô nhiễm môi trường đất và tạo điều kiện cho nhiều loại sâu bệnh, đặc biệt là bệnh vàng lá và thối rễ, bùng phát và gây hại nghiêm trọng đến diện tích cà phê. Để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của ngành cà phê, việc ứng dụng công nghệ thông minh trong quản lý và sản xuất là vô cùng cần thiết.
Trong hoạt động chế biến ngành cà phê
Trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, hoạt động chế biến cà phê tập trung vào hai phương pháp chính: chế biến ướt và chế biến khô. Trong đó, công nghệ chế biến khô (sử dụng máy móc đơn giản như máy rang, xay, đóng gói) thường áp dụng cho cà phê Robusta, mang lại sản phẩm cà phê nhân chất lượng cơ bản. Ngược lại, chế biến ướt xử lý nguyên liệu cà phê tươi, loại bỏ tạp chất và quả xanh non ngay từ đầu, cho ra cà phê nhân chất lượng cao và đồng đều. Tuy nhiên, phần lớn cơ sở chế biến cà phê tại Đắk Lắk hiện hoạt động ở quy mô nhỏ, chủ yếu áp dụng phương pháp chế biến khô với dây chuyền thiết bị đơn giản (gồm 1 máy rang, 1 máy xay và 1 máy đóng gói). Trong khi đó, chỉ một số ít doanh nghiệp đầu tư bài bản với quy trình hiện đại, công suất lớn, đáp ứng tiêu chuẩn cao hơn về chất lượng và năng lực sản xuất. Sự chênh lệch này phản ánh rõ nét thực trạng phân hóa trong ngành chế biến cà phê địa phương.
Đắk Lắk hiện có 255 cơ sở chế biến cà phê, phân bổ theo các loại hình sản xuất chính: 239 cơ sở chuyên cà phê bột, 13 cơ sở kết hợp sản xuất cà phê bột và hòa tan, 10 cơ sở sơ chế cà phê nhân xuất khẩu, 2 cơ sở đa dạng hóa sản phẩm (cà phê bột và tinh cà phê), cùng 1 cơ sở chuyên sản xuất tinh cà phê. Tổng sản lượng chế biến đạt 469.500 tấn/năm, trong đó cà phê bột chiếm 300.000 tấn (64%) và cà phê hòa tan đạt 9.500 tấn. Dù đã có xu hướng phát triển cà phê hữu cơ và cà phê sạch đáp ứng nhu cầu thị trường, ngành chế biến cà phê tại đây vẫn tồn tại nhiều hạn chế: Quy mô nhỏ lẻ với trang thiết bị lạc hậu; nguồn nhân lực thiếu chuyên môn, chưa đáp ứng yêu cầu kỹ thuật, sản phẩm đơn điệu, thiếu tính đa dạng dẫn đến khả năng cạnh trên thị trường còn hạn chế.
Cơ hội để phát triển sản phẩm cà phê
Phát triển chuỗi giá trị sản phẩm cà phê Chỉ dẫn địa lý “Buôn Ma Thuột” thời gian qua đã đạt được những thành công nhất định nhờ tận dụng tốt các nguồn lực sẵn có về tài nguyên, đất đai, lao động và tập quán canh tác của người dân. Tuy nhiên, phát triển chuỗi giá trị sản phẩm cà phê Chỉ dẫn địa lý “Buôn Ma Thuột” đang gặp phải 1 số vấn đề trong liên kết các tác nhân trong chuỗi đã khiến bỏ lỡ nhiều cơ hội để nâng cấp hệ thống, nâng cao giá trị sản phẩm cũng như tăng thu nhập, lợi nhuận cho tác nhân tham gia chuỗi. Cho đến nay, sản phẩm cà phê Chỉ dẫn địa lý “Buôn Ma Thuột” vẫn nằm ở vị trí thấp trong chuỗi giá trị toàn cầu, phần lớn tiêu thụ dưới dạng sản phẩm thô, các lợi thế chưa được phát huy hiệu quả, sản phẩm đầu ra trên thị trường thế giới còn phụ thuộc nhiều vào các đối tác trung gian như Trung Quốc, năng lực và công nghệ chế biến còn yếu kém.
Để hiện thực hóa mục tiêu xuất khẩu 6 tỷ USD vào năm 2030 mà Chính phủ đặt ra, đồng thời nâng cao giá trị gia tăng cho cà phê Việt Nam, ngành cà phê cần được đầu tư đồng bộ thông qua các giải pháp thiết thực. Trong đó, trọng tâm là tái cơ cấu ngành một cách hiệu quả, quy hoạch các vùng trồng tập trung, chuyên canh, đồng thời phát triển công nghiệp chế biến hiện đại. Việc ứng dụng công nghệ cao, tăng cường liên kết giữa vùng nguyên liệu và nhà máy chế biến sâu, cũng như thúc đẩy hợp tác trong sản xuất và kinh doanh cà phê là yếu tố then chốt để ổn định xuất khẩu, duy trì và mở rộng thị trường.
Đổi mới sáng tạo là chìa khóa giải quyết những thách thức hiện tại của ngành cà phê, từ việc duy trì tăng trưởng, nâng cao hiệu quả, năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng, đến việc cải thiện năng lực cạnh tranh quốc tế, đáp ứng thị hiếu và các tiêu chuẩn khắt khe về vệ sinh an toàn thực phẩm cho cả thị trường nội địa và xuất khẩu, cũng như cải thiện môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, việc tăng cường kết nối với thị trường quốc tế đóng vai trò quan trọng. Thông qua các hội chợ cà phê quốc tế và chương trình xúc tiến thương mại đã giúp Đắk Lắk đã mở rộng cơ hội tiếp cận thị trường toàn cầu. Các doanh nghiệp cà phê cũng ngày càng chú trọng vào việc cải thiện bao bì, quảng bá thương hiệu và nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng.
*
* *
Đổi mới sáng tạo trong phát triển ngành cà phê của tỉnh Đắk Lắk trong những năm qua đã tạo ra những đột phá trong các công đoạn đặc biệt trong công tác lai tạo giống để tạo nên những giống cà phê có năng suất, chất lượng cao cho người trồng cà phê có bộ giống đảm bảo về tiêu chuẩn... Việc đổi mới sáng tạo trong ngành cà phê Đắk Lắk đang diễn ra mạnh mẽ và có nhiều triển vọng. Tuy nhiên, để ngành cà phê phát triển bền vững và có giá trị gia tăng cao trong cơ cấu nền kinh tế của địa phương, cần tiếp tục nâng cao chất lượng, mở rộng thị trường tiêu thụ và chú trọng bảo vệ môi trường. Các chính sách hỗ trợ từ chính quyền, sự hợp tác giữa các doanh nghiệp và nông dân cũng sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển ngành cà phê của tỉnh Đắk Lắk trong các năm tới.
PT (tổng hợp)