
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng (bên trái) và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Văn Giang (bên phải)
đồng chủ trì Hội nghị (nguồn: Giang Huy).
Về tuyên ngôn khoa học và công nghệ: Khoa học và công nghệ là để tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân và sự phát triển của nhân loại; hài hòa với môi trường, giá trị đạo đức xã hội và phẩm giá con người; Kết nối và cân bằng giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội; tôn trọng tính tự chủ và sáng tạo của các nhà khoa học và công nghệ. Điểm chính của tuyên ngôn này là nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ của chúng ta sẽ tập trung vào kết quả cuối cùng là đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ con người. Đây là định hướng quan trọng, nghiên cứu khoa học và công nghệ phải hướng đến kết quả cuối cùng. Nghiên cứu không phải để nghiên cứu mà nghiên cứu để phát triển.
Về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo: Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 sẽ được sửa đổi năm nay và trở thành Luật khoa học Công nghệ và Đổi mới sáng tạo. Lần đầu tiên, đổi mới sáng tạo được đưa vào và đứng ngang với khoa học và công nghệ. Đổi mới sáng tạo là ứng dụng tri thức mới, công nghệ mới do khoa học và công nghệ tạo ra để hình thành ý tưởng, giải pháp mới, tạo ra sản phẩm/dịch vụ mới, quy trình mới, mô hình kinh doanh mới, mô hình quản trị mới để phát triển mọi mặt kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Nhấn mạnh đổi mới sáng tạo là nhấn mạnh phần ứng dụng khoa học và công nghệ vào cuộc sống.
Về chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu và đánh giá hiệu quả cuối cùng của nghiên cứu: Dự án nghiên cứu mà không ra kết quả như dự kiến thì tổ chức nghiên cứu không phải đền bù như trước đây, được miễn trách nhiệm dân sự khi gây ra thiệt hại cho Nhà nước trong quá trình thực hiện nghiên cứu, các nghiên cứu chưa đạt kết quả nhưng có hứa hẹn sẽ được cấp tiếp ngân sách để nghiên cứu đến kết quả cuối cùng. Chấp nhận rủi ro từng nhiệm vụ, từng dự án nghiên cứu nhưng Bộ Khoa học và Công nghệ vẫn đánh giá hiệu quả tổng thể của các tổ chức nghiên cứu, để xem tổ chức nghiên cứu nào hiệu quả thì sẽ tiếp tục giao thêm nhiệm vụ. Ai làm hiệu quả sẽ được cấp kinh phí nhiều hơn. Ai không hiệu quả sẽ bị cắt giảm. Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ ban hành bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động khoa học công nghệ của các tổ chức nghiên cứu.
Về tự chủ, thực hiện khoán chi: Cơ sở nghiên cứu nhận một cục và chủ động chi, chịu trách nhiệm về chi, không bị quản như là một đơn vị nhà nước chi tiêu ngân sách. Nhà nước quản lý mục tiêu, quản lý đầu ra, quản lý kết quả và hiệu quả nghiên cứu, không quản lý cách làm. Sự thông thoáng này sẽ đẩy nhanh quá trình nghiên cứu.
Về sở hữu kết quả nghiên cứu: Nhà nước cấp tiền cho cơ sở nghiên cứu, nhưng kết quả nghiên cứu sẽ do cơ sở nghiên cứu nắm giữ, không phải trả lại kết quả nghiên cứu cho Nhà nước. Bộ Quốc phòng sẽ sử dụng các kết quả nghiên cứu này để đưa vào sản xuất phục vụ quốc phòng, đưa vào kinh doanh phục vụ kinh tế. Nhà nước cho phép các cơ sở nghiên cứu được hưởng một phần doanh thu hoặc lợi nhuận khi đưa kết quả nghiên cứu vào sản xuất. Bộ Quốc phòng cân nhắc việc các nhà máy quốc phòng nếu sản xuất dựa trên kết quả nghiên cứu thì trả cho cơ sở nghiên cứu một phần dựa trên doanh thu hoặc lợi nhuận. Tiền này để tăng thu nhập cho người làm nghiên cứu và tăng đầu tư cơ sở hạ tầng cho các cơ sở nghiên cứu.
Về thương mại hóa kết quả nghiên cứu: Nghiên cứu của Bộ Quốc phòng cũng phải lưỡng dụng, hướng tới góp phần cho phát triển kinh tế, tăng trưởng 2 con số. Bộ Khoa học và Công nghệ đề nghị Bộ Quốc phòng đạt tỷ lệ 20-30% kết quả nghiên cứu được đưa ra dân sinh. Nếu phần này tăng lên thì Bộ Khoa học và Công nghệ cũng sẽ cấp nhiều hơn nữa ngân sách nghiên cứu khoa học và công nghệ cho Bộ Quốc phòng. Quân đội không chỉ là đội quân chiến đấu mà còn là đội quân sản xuất. Bộ Quốc phòng cũng đang sở hữu những doanh nghiệp kinh tế lớn nhất đất nước. Kết nối dân sự và quân sự là việc có tính chiến lược và Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ là cầu nối.
Về thung lũng chết trong nghiên cứu: Tức là sản xuất loạt 0 để hoàn thiện sản phẩm và quy trình sản xuất. Các tài trợ nghiên cứu trước đây thường dừng lại ở sản phẩm mẫu. Nay, tài trợ nghiên cứu của Nhà nước sẽ bao gồm cả sản xuất loạt 0. Bộ Quốc phòng có thể dùng tới 30% tổng ngân sách nghiên cứu để dành cho sản xuất loạt 0. Yêu cầu của Bộ Khoa học và Công nghệ là sau sản xuất loạt 0 thì ít nhất 70% các sản phẩm sẽ được đưa vào sản xuất loạt. Ngân sách sản xuất loạt 0 thì Nhà nước tài trợ 50, Bộ Quốc phòng tài trợ đối ứng 50.
Về nghiên cứu cơ bản phải hỗ trợ cho các nghiên cứu phát triển công nghệ và sản phẩm: Muốn phát triển được các công nghệ hiện đại thì phải cần đến các nghiên cứu cơ bản. Dựa trên các phát triển công nghệ và sản phẩm của mình, Bộ Quốc phòng đặt ra các bài toán về nghiên cứu cơ bản để đặt hàng các cơ sở nghiên cứu cơ bản bên trong Bộ Quốc phòng, hoặc Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ mang những bài toán này đi đặt hàng các cơ sở nghiên cứu cơ bản của quốc gia bằng nguồn ngân sách Nhà nước, sau đó mang lại phục vụ cho phát triển công nghệ và sản phẩm của Bộ Quốc phòng. Đây là cách tiếp cận mới, rất quan trọng để thúc đẩy nhanh việc phát triển công nghệ, phát triển sản phẩm, kết nối nghiên cứu khoa học với phát triển công nghệ.
Về chuyển dịch các đề tài nghiên cứu từ nhỏ sang lớn, từ các nghiên cứu nhỏ sang các nghiên cứu chiến lược, để nâng tầm các cơ sở nghiên cứu: Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ tập trung chi cho các nghiên cứu lớn thay vì hàng ngàn nghiên cứu nhỏ chỉ mang lại các cải tiến nhỏ. Bộ Quốc phòng cũng nên định hướng vào các nghiên cứu lớn, giải quyết những vấn đề lớn của Bộ Quốc phòng, những vấn đề lớn của quốc gia, mang lại những tiến bộ đáng kể và vượt bậc cho Bộ Quốc phòng. Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ hỗ trợ tích cực cho Bộ Quốc phòng trong những nghiên cứu lớn có tầm chiến lược này. Số tiền thì tăng nhưng số đề tài thì giảm.
Về tăng tiềm lực, xây dựng hạ tầng khoa học và công nghệ: Đó là xây dựng các phòng thí nghiệm hiện đại. Đây là hạ tầng nghiên cứu, phải đầu tư, liên tục đầu tư. Bộ Khoa học và Công nghệ đang định hướng phân bổ 20-30% tổng ngân sách khoa học và công nghệ hằng năm để đầu tư vào hạ tầng khoa học và công nghệ. Đề nghị Bộ Quốc phòng quan tâm đến hạ tầng khoa học và công nghệ trong Bộ Quốc phòng, đây là vấn đề cốt lõi, lâu dài, để đảm bảo thực hiện được các nghiên cứu chiến lược. Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ đồng hành để tăng tiềm lực nghiên cứu, hạ tầng khoa học và công nghệ của Bộ Quốc phòng. Trước mắt là xây dựng cơ sở dữ liệu về hạ tầng này, sau đó là định hướng đầu tư, đảm bảo rằng hạ tầng khoa học và công nghệ phải tiến tới ngang hàng các nước phát triển về công nghệ chiến lược.
Về tiềm lực con người, nhân lực nghiên cứu chất lượng cao, nhân tài: Cơ chế mới về khoa học và công nghệ là dành tới 30% số tiền thu được từ thương mại hóa kết quả nghiên cứu để chi trực tiếp cho người làm nghiên cứu. Đây là cách để tăng thu nhập cho người làm nghiên cứu, phải có thu nhập cao thì mới thu hút, giữ chân được người tài làm nghiên cứu khoa học và công nghệ. Việc tăng lương cơ bản cho người làm nghiên cứu là giải pháp tốt, nhất là đối với các nghiên cứu cơ bản, nhưng việc người làm được hưởng một phần thành quả mà họ làm ra, như là tinh thần của khoán 10, mới là quan trọng. Người làm khoa học và công nghệ có thể giàu có, có thể trở thành tỷ phú một cách chân chính.
Về chuyển dịch nghiên cứu cơ bản về các trường đại học: Tất cả các quốc gia đều lấy đại học là trung tâm nghiên cứu cơ bản, vì ở đây tập trung cao nhất về nhân lực nghiên cứu cơ bản, đó là đội ngũ giáo viên, giáo sư, sinh viên, nghiên cứu sinh. Để hút nghiên cứu về đại học thì phải đầu tư các phòng thí nghiệm hiện đại cho đại học, phải kiên trì cấp ngân sách nghiên cứu cho các đại học. Phải hướng các nghiên cứu này vào phục vụ các mục tiêu phát triển công nghệ và sản phẩm chiến lược của quốc gia. Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ kiên trì định hướng này, nhất là đầu tư các phòng thí nghiệm trọng điểm và cấp ngân sách nghiên cứu cơ bản cho các đại học trong quân đội. Nhưng về phát triển công nghệ và sản phẩm thì cơ bản phải dựa vào các viện nghiên cứu công nghệ, các doanh nghiệp.
Về việc cấp trên chỉ ra và đặt hàng các đề tài nghiên cứu lớn: Trước đây, chủ yếu là các viện, trường đề xuất rồi cấp trên xét duyệt và cấp kinh phí, thì nay sẽ chỉ là chính. Cấp trên thì nắm các vấn đề chiến lược nên sẽ chỉ ra đúng các bài toán lớn và giao các viện, trường, doanh nghiệp thực hiện. Trên 70% sẽ do chỉ. Đây cũng sẽ là một thay đổi lớn.
Về quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp: Quỹ này đang là một nguồn lực lớn chưa được phát huy. Các doanh nghiệp nói chung chỉ mới dùng được 10-20%. Nguyên nhân là do Luật Khoa học và Công nghệ giới hạn nội dung chi và thủ tục chi phức tạp. Luật Khoa học và Công nghệ đang được sửa đổi để mở rộng nội dung chi và đơn giản hóa thủ tục chi của quỹ này. Trong đó có việc cho phép doanh nghiệp được dùng quỹ để thuê các tổ chức khác làm nghiên cứu. Các doanh nghiệp quân đội có thể dùng quỹ này để đặt hàng các tổ chức nghiên cứu bên trong Bộ Quốc phòng thực hiện các nghiên cứu phát triển, đây là cách tăng ngân sách nghiên cứu cho các cơ sở nghiên cứu của quân đội. Luật mới cũng cho phép doanh nghiệp dùng quỹ này để đầu tư vào các startup công nghệ.
Về việc bố trí tỷ lệ phù hợp cán bộ có chuyên môn, kinh nghiệm về khoa học và công nghệ trong cấp ủy và lãnh đạo các cấp. Khoa học và công nghệ trong nhiều năm qua chưa đạt kết quả như mong muốn có lý do là thiếu người chuyên môn khoa học và công nghệ trong các cấp lãnh đạo. Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị đã chỉ ra nguyên nhân này và đặt ra yêu cầu về cơ cấu một tỷ lệ phù hợp cán bộ khoa học và công nghệ trong cấp ủy các cấp. Bộ Quốc phòng quan tâm chỉ đạo bố trí cán bộ khoa học và công nghệ vào các cấp lãnh đạo để khoa học và công nghệ trong quân đội có bước phát triển đột phá.
Bộ Quốc phòng là một hộ khoa học và công nghệ lớn của quốc gia. Bộ Quốc phòng là một hộ tiêu dùng khoa học và công nghệ lớn, một hộ nghiên cứu khoa học và công nghệ lớn, nên phải đi đầu về các định hướng mới.
CT