Trong đó, Chương I quy định về: Những quy định chung, gồm 11 điều (từ Điều 1 đến Điều 11). Chương II. Tổ chức KH&CN, gồm 12 điều (từ Điều 12 đến Điều 23); Chương III: Nhân lực hoạt động KH,CN&ĐMST, gồm 08 điều (từ Điều 24 đến Điều 31); Chương IV: Đầu tư và tài chính phục vụ phát triển KH,CN&ĐMST, gồm 10 điều (từ Điều 32 đến Điều 41); Chương V: Hạ tầng, thông tin KH,CN&ĐMST, gồm 03 điều (từ Điều 42 đến Điều 44); Chương VI: Nhiệm vụ, dự án sử dụng ngân sách nhà nước cho KH&CN, gồm 12 điều (từ Điều 45 đến Điều 56); Chương VII: Thương mại hóa kết quả nghiên cứu, phát triển, gồm 03 điều (từ Điều 57 đến Điều 59); Chương VIII: Nghiên cứu, phát triển công nghệ và ĐMST trong doanh nghiệp, gồm 06 điều (từ Điều 60 đến Điều 65); Chương IX. Hệ thống ĐMST quốc gia, gồm 03 điều (từ Điều 66 đến Điều 68); Chương X: Phổ biến, lan tỏa tri thức KH,CN&ĐMST, gồm 04 điều (từ Điều 69 đến Điều 72); Chương XI: Hợp tác và hội nhập quốc tế về KH,CN&ĐMST, gồm 03 điều (từ Điều 73 đến Điều 75); Chương XII: Trách nhiệm quản lý nhà nước về KH,CN&ĐMST, gồm 04 điều (Điều 76 đến Điều 79); Chương XIII: Điều khoản thi hành, gồm 04 điều (Điều 80 đến Điều 83).
Luật KH,CN&ĐMST được xây dựng nhằm tạo tác động một cách tích cực, hiệu lực và hiệu quả tới các hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ theo cách tiếp cận toàn diện của hệ thống ĐMST quốc gia, thúc đẩy cả ba chức năng tạo ra tri thức, ứng dụng tri thức và truyền bá tri thức mạnh mẽ hơn trong đời sống xã hội và đóng góp cho nhân loại. Từ đó, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an ninh, an toàn cho quốc gia, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, đưa KH,CN&ĐMST thực sự trở thành động lực để hoàn thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đạt mục tiêu kép của quốc gia vào năm 2030 và 2045 như Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.
CT