Hiện nay, có nhiều phương pháp điều trị cho các các bệnh nhân (BN) hiếm muộn, trong đó phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) đóng vai trò quan trọng và ngày càng được phát triển rộng khắp trên thế giới, song tỷ lệ thành công mới chỉ đạt khoảng 30-40%. Việc lựa chọn phôi hầu như chỉ dựa trên những tiêu chuẩn về hình thái, do vậy chưa phản ánh đầy đủ chất lượng thực của phôi, dẫn đến kết quả điều trị TTTON bị hạn chế. Để nâng cao chất lượng điều trị, đồng thời sàng lọc một số bệnh di truyền, việc chẩn đoán di truyền trước chuyển phôi (Preimplantation Genetic Diagnosis - PGD) là một trong những yêu cầu quan trọng và cấp thiết, nhưng để thực hiện được kỹ thuật này cần phải sinh thiết phôi. Trên cơ sở đó, các tác giả đã triển khai đề tài “Nghiên cứu hình thái phôi sau sinh thiết để chẩn đoán di truyền trước chuyển phôi” nhằm đánh giá sự thay đổi hình thái phôi sau sinh thiết ngày 3 (phôi được nuôi cấy đến ngày thứ 3 trước khi sinh thiết) và tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng tới khả năng phôi sống sót và tạo phôi túi sau sinh thiết. Đối tượng nghiên cứu là 102 phôi còn dư khi TTTON, sinh thiết ngày 3. Chất lượng phôi được đánh giá dựa theo tác giả Andres Salumets (2001) [1] với 3 tiêu chuẩn chính là: số lượng của các phôi bào trong một phôi; sự đồng đều giữa các phôi bào; tỷ lệ (%) giữa mảnh vỡ bào tương và thể tích của phôi. Kết quả cho thấy, sau sinh thiết 24 giờ, tỷ lệ phôi sống sót, tiếp tục phát triển chung của cả 3 nhóm là 93/102 phôi, đạt 91,17% và sau 48 giờ tỷ lệ hình thành phôi túi là 83 phôi, đạt 81,37%, trong đó số phôi túi tiếp tục sống sót và phát triển (loại AA và AB) là 67 phôi, chiếm 65,68%. Tỷ lệ mảnh vỡ bào tương, độ dày màng trong suốt, đường kính phôi giữa các nhóm thay đổi không có ý nghĩa thống kê. Từ kết quả nghiên cứu có thể kết luận: sinh thiết bằng tia laser không làm thay đổi hình thái phôi, khả năng sống sót và tạo thành phôi túi. Tuổi mẹ, thời gian vô sinh, nồng độ FSH (hormone kích thích nang trứng) càng cao thì tỷ lệ phôi sống sót và tạo thành phôi túi càng giảm. Phương pháp TTTON thông thường (IVF) hoặc phương pháp tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI) không ảnh hưởng tới tỷ lệ phôi sống sót, tiếp tục phát triển và tạo thành phôi túi sau sinh thiết.