Tiêu chuẩn đo lường chất lượng

Thúc đẩy truy xuất nguồn gốc: Nền tảng nâng cao chất lượng và tăng sức cạnh tranh cho hàng hóa

PV 11/12/2025 15:16

Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và các thị trường lớn liên tục siết chặt hàng rào kỹ thuật, truy xuất nguồn gốc đã trở thành yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp Việt Nam. Không chỉ là công cụ để minh bạch hóa quy trình sản xuất, truy xuất nguồn gốc còn góp phần xây dựng lòng tin với người tiêu dùng, bảo vệ thương hiệu và đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe của thị trường quốc tế.

Phát biểu khai mạc Hội nghị “Sơ kết 5 năm triển khai Đề án 100” do Trung tâm Mã số, mã vạch quốc gia (Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia) phối hợp với Báo điện tử Tiếng nói Việt Nam (Đài Tiếng nói Việt Nam) tổ chức ngày 11/12/2025 tại Hà Nội, ông Nguyễn Nam Hải - Chủ tịch Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia (Bộ KH&CN) cho biết, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, minh bạch thông tin sản phẩm và quản lý chất lượng hàng hóa đã trở thành yêu cầu tất yếu của thị trường.

Truy xuất nguồn gốc không chỉ là một công cụ kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực quản lý an toàn thực phẩm và chất lượng sản phẩm, mà còn là điều kiện tiên quyết để hàng hóa Việt Nam có thể tham gia hiệu quả vào các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu, đáp ứng các quy định khắt khe của đối tác quốc tế.

1.jpg
Chủ tịch Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia Nguyễn Nam Hải phát biểu khai mạc Hội nghị. Ảnh ND-MM

Bước sang giai đoạn hội nhập sâu rộng, đặc biệt là khi các thị trường lớn như châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản... áp dụng các quy định mới về thiết kế sinh thái, hộ chiếu số sản phẩm, truy xuất nguồn gốc bắt buộc, Việt Nam càng cần khẳng định vị thế bằng các tiêu chuẩn tiên tiến, hệ thống dữ liệu tin cậy và năng lực kết nối chuỗi cung ứng mở, bền vững, số hóa. Đây vừa là thách thức, vừa là cơ hội để hàng hóa Việt Nam bước nhanh hơn, vững vàng hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Những kết quả bước đầu

Báo cáo tại Hội nghị, ông Bùi Bá Chính - Quyền Giám đốc Trung tâm Mã số, mã vạch quốc gia cho biết thêm, ngày 19/1/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 100/QĐ-TTg Phê duyệt Đề án triển khai, áp dụng và quản lý hệ thống truy xuất nguồn gốc (Đề án 100).

Triển khai Đề án 100, Bộ KH&CN đã chủ động ban hành nhiều văn bản nhằm thúc đẩy truy xuất nguồn gốc. Điển hình như: Thông tư số 02/2024/TT-BKHCN về quản lý truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa (đã triển khai tại 34 tỉnh/thành phố sau hợp nhất); công bố 35 TCVN về truy xuất nguồn gốc và mã truy vết. Chủ trì soạn thảo Luật sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa (đã được Quốc hội thông qua ngày 18/06/2025) bổ sung quy định truy xuất nguồn gốc...

2.jpg
Quyền Giám đốc Trung tâm Mã số, mã vạch quốc gia Bùi Bá Chính báo cáo tại Hội nghị. Ảnh ND-MM

Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng ban hành nhiều thông tư liên quan đến truy xuất nguồn gốc trong thực phẩm, nông, lâm, thủy sản; Bộ Công Thương cũng đã ban hành Quyết Định số 1978/QĐ-BCT ngày 28/7/2020 về kế hoạch thực hiện “Đề án triển khai, áp dụng và quản lý hệ thống truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa giai đoạn đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”...

Ông Chính cho biết thêm, Trung tâm Mã số, mã vạch quốc gia cũng đã xây dựng và vận hành Hệ thống quản lý thông tin truy xuất nguồn gốc nhằm kết nối tất cả thành phần tham gia trong chuỗi cung ứng, giữa các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp. Đến nay, 1,9 triệu sản phẩm đã được định danh, 5000 sản phẩm kê khai đủ chuỗi, 25.000 doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh triển khai, áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc, trên 20 triệu tem, mã truy xuất nguồn gốc đã được sử dụng.

Đặc biệt, việc ứng dụng công nghệ như blockchain, trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT) hay mã định danh điện tử là bước đi cần thiết trong xu hướng chuyển đổi số quốc gia, góp phần nâng cao tính minh bạch trong cả sản xuất lẫn phân phối.

Nếu khung pháp lý tạo nền móng, thì công tác tuyên truyền, đào tạo chính là yếu tố giúp truy xuất nguồn gốc lan tỏa rộng rãi và đi vào thực tiễn. Những năm gần đây, nhiều chương trình truyền thông, hội thảo, tập huấn đã được triển khai trên toàn quốc với sự tham gia của các hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân. Các hoạt động này giúp người sản xuất hiểu rõ truy xuất nguồn gốc không phải là gánh nặng chi phí, mà là giải pháp đem lại lợi ích lâu dài.

Song song với truyền thông đại chúng, các khóa đào tạo chuyên sâu về hệ thống truy xuất nguồn gốc cũng được đẩy mạnh. Nhiều địa phương đã phối hợp với viện nghiên cứu, trường đại học và các tổ chức quốc tế để tổ chức khóa học về tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế, công nghệ ghi nhận dữ liệu, quản lý chuỗi cung ứng và kỹ năng ứng dụng phần mềm. Việc nâng cao năng lực cho cán bộ kỹ thuật và doanh nghiệp được xem là bước đệm quan trọng để hình thành đội ngũ làm chủ công nghệ, hạn chế phụ thuộc vào nhà cung cấp bên ngoài.

Sự phát triển của truy xuất nguồn gốc tại Việt Nam không thể tách rời xu thế chung của thế giới. Những năm qua, cơ quan quản lý đã tăng cường hợp tác với nhiều đối tác quốc tế về tiêu chuẩn hóa, chuyển giao công nghệ và công nhận lẫn nhau trong kiểm soát chất lượng hàng hóa. Đây là hướng đi cần thiết để hàng hóa Việt Nam thâm nhập sâu vào các thị trường quốc tế.

Đặc biệt, việc thúc đẩy đàm phán công nhận lẫn nhau trong quản lý chất lượng và truy xuất nguồn gốc giúp giảm chi phí kiểm tra trùng lặp, rút ngắn thời gian thông quan và tăng tốc độ đưa sản phẩm ra thị trường. Đây là lợi thế quan trọng để doanh nghiệp Việt Nam mở rộng thị phần quốc tế.

Một số vướng mắc và giải pháp phát triển

Mặc dù đã được những kết quả tương đối tốt, nhưng còn chưa đồng đều, một số địa phương mới chỉ mới ban hành kế hoạch hoặc triển khai hạn chế. Việc chênh lệch lớn về nhân lực, tài chính, hạ tầng công nghệ thông tin... cũng khiến việc triển khai ở các địa phương, vùng, miền không đồng bộ.

Một số lĩnh vực như nông nghiệp, thủy sản, thực phẩm chế biến đã đạt kết quả tích cực, nhưng vẫn còn khoảng cách đáng kể ở những ngành như sản xuất nhỏ lẻ, làng nghề, phân phối truyền thống. Bên cạnh đó, hạ tầng số chưa đồng bộ, chi phí đầu tư ban đầu còn cao, thói quen sản xuất truyền thống, hay tình trạng các hệ thống không liên thông gây khó khăn khi quản lý dữ liệu.

Phát biểu chỉ đạo Hội nghị, Thứ trưởng Bộ KH&CN Lê Xuân Định cho rằng, Đề án 100 đã chứng minh tính đúng đắn của một chủ trương lớn. 5 năm qua là một hành trình nỗ lực không ngừng của các cơ quan quản lý, các bộ ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học.

Từ chỗ truy xuất nguồn gốc còn là khái niệm tương đối mới mẻ, đến nay chúng ta đã xây dựng được nền tảng chính sách, mô hình triển khai và hệ thống kết nối tương đối đồng bộ, góp phần quan trọng vào minh bạch thông tin sản phẩm, bảo vệ người tiêu dùng và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam.

3.jpg
Thứ trưởng Bộ KH&CN Lê Xuân Định phát biểu chỉ đạo Hội nghị. Ảnh ND-MM.

Trong giai đoạn tới, Đề án 100 phải chuyển từ “triển khai” sang “đột phá”. Phải chuyển từ “thí điểm” sang “chuẩn hóa”. Phải chuyển từ “kết nối kỹ thuật” sang “liên thông dữ liệu quốc gia”. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đến năm 2030, Thứ trưởng Lê Xuân Định đề nghị Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia (cơ quan thường trực giúp Bộ KH&CN quản lý nhà nước về lĩnh vực này) phối hợp với các đơn vị có liên quan triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm sau:

Một là, hoàn thiện thể chế, tạo hành lang pháp lý mạnh và đồng bộ. Triển khai hiệu quả các thông tư, nghị định hướng dẫn Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2025 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật. Bên cạnh đó, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật theo hướng minh bạch và hài hòa quốc tế.

Hai là, phát triển nền tảng số quốc gia về truy xuất nguồn gốc hiện đại, an toàn, liên thông quốc tế. Nền tảng số quốc gia về truy xuất nguồn gốc phải được nâng cấp để đảm bảo dữ liệu được thu thập, lưu trữ, chia sẻ kết hợp giữa tập trung và phân tán để phục vụ hiệu quả công tác quản lý nhà nước, hỗ trợ cho doanh nghiệp và minh bạch thông tin cho người tiêu dùng. Đồng thời, có khả kết nối và liên thông dữ liệu chuyên ngành với các hệ thống truy xuất nguồn gốc quốc tế.

Ba là, khuyến khích doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi số quy trình sản xuất kinh doanh gắn với truy xuất nguồn gốc. Bộ KH&CN sẽ tiếp tục đồng hành, phối hợp địa phương triển khai các chương trình hỗ trợ kỹ thuật, tư vấn giải pháp số phù hợp, đồng thời hình thành các mô hình thí điểm theo ngành hàng và theo vùng. Bên cạnh đó, các địa phương cần tăng tốc hơn nữa trong việc hỗ trợ doanh nghiệp. Các sở ngành phải đóng vai trò đầu tàu trong việc tổ chức, hướng dẫn, kiểm tra và thúc đẩy triển khai. Không còn chỗ cho sự chậm trễ hoặc triển khai mang tính hình thức.

Bốn là, xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo cho truy xuất nguồn gốc. Tạo điều kiện cho doanh nghiệp công nghệ phát triển giải pháp mở, chi phí hợp lý; khuyến khích ứng dụng AI, cảm biến, blockchain bảo đảm tính chính xác và minh bạch dữ liệu.

Năm là, nâng cao nhận thức của xã hội tạo sự đồng lòng và lan tỏa. Truy xuất nguồn gốc không chỉ để quản lý mà quan trọng hơn là để bảo vệ người tiêu dùng, khẳng định thương hiệu Việt và nâng tầm giá trị của hàng hóa Việt Nam trên trường quốc tế./.

Nổi bật
    Mới nhất
    Thúc đẩy truy xuất nguồn gốc: Nền tảng nâng cao chất lượng và tăng sức cạnh tranh cho hàng hóa