Truyền thông

Ứng dụng khoa học và công nghệ trong trồng rừng keo: Giải pháp giảm nghèo bền vững trên vùng đất ngập phèn Đồng bằng sông Cửu Long

CT 19/12/2025 09:28

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, suy giảm tài nguyên đất và yêu cầu phát triển sinh kế bền vững cho người dân nông thôn, đặc biệt là các vùng đất khó khăn, phát triển rừng trồng gắn với ứng dụng khoa học và công nghệ đang được xem là hướng đi quan trọng của ngành lâm nghiệp. Thực tiễn tại Đồng bằng sông Cửu Long cho thấy, việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật trong trồng rừng keo trên đất ngập chua phèn không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt mà còn góp phần tạo sinh kế ổn định, nâng cao thu nhập và giảm nghèo bền vững cho người dân.

Keo - cây trồng phù hợp cho vùng đất khó

Keo là loài cây lâm nghiệp sinh trưởng nhanh, chu kỳ kinh doanh ngắn, có khả năng thích nghi tốt với nhiều điều kiện sinh thái khác nhau. Tại Đồng bằng sông Cửu Long - nơi có khoảng 1,6 triệu ha đất ngập phèn phân bố tập trung ở vùng Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên và Bán đảo Cà Mau - keo được xác định là loài cây có tiềm năng thay thế các mô hình trồng tràm truyền thống vốn cho giá trị kinh tế thấp và đầu ra thiếu ổn định.

455-202512172314481.png
Rừng trồng keo tại Nam Bộ.

Tính đến năm 2024, diện tích rừng trồng keo toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt khoảng 15.621 ha, tập trung chủ yếu tại các tỉnh Cà Mau, An Giang... Rừng keo đã và đang trở thành nguồn cung nguyên liệu quan trọng cho các nhà máy chế biến gỗ MDF, ván ép, viên nén sinh khối trong khu vực, qua đó mở ra thị trường tiêu thụ ổn định cho người trồng rừng.

Ứng dụng khoa học - “chìa khóa” nâng năng suất và hiệu quả

Những kết quả nghiên cứu trong giai đoạn của Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam và Viện Khoa học Lâm nghiệp Nam Bộ cho thấy, việc lựa chọn giống keo phù hợp và áp dụng đúng kỹ thuật trồng là yếu tố quyết định thành công của rừng trồng trên đất ngập phèn.

Các giống keo lai (AH1, AH7) và keo lá tràm (AA1, AA9, Clt7, Clt26, Clt98…) được xác định có sinh trưởng tốt trên đất phèn khi trồng trên líp cao hoặc bờ bao, tránh ngập nước kéo dài. Nhiều mô hình đạt năng suất 30-46 m³/ha/năm, cá biệt có mô hình keo lai AH7 đạt trên 40 m³/ha/năm sau 4-6 năm trồng.

Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, kỹ thuật làm đất lên líp cao là giải pháp then chốt giúp cây keo sinh trưởng ổn định trên đất phèn. Tại vùng Tứ giác Long Xuyên và U Minh Hạ, các mô hình trồng keo trên líp cao đạt sinh trưởng vượt trội so với líp thấp hoặc trung bình, giảm tỷ lệ chết cây do ngập nước mùa lũ.

Đây là minh chứng rõ ràng cho vai trò của khoa học và công nghệ trong “thuần hóa” đất khó, biến bất lợi tự nhiên thành lợi thế sản xuất.

Hiệu quả kinh tế rõ nét - cơ sở cho giảm nghèo

Không chỉ dừng lại ở năng suất, các mô hình trồng rừng keo ứng dụng khoa học và công nghệ còn cho thấy hiệu quả kinh tế cao, tạo tiền đề quan trọng cho giảm nghèo bền vững.

Theo các nghiên cứu đánh giá tại Cà Mau, doanh thu rừng keo đạt trên 120 triệu đồng/ha, lợi nhuận ròng trước thuế khoảng 60 triệu đồng/ha đối với keo trồng trên đất líp.

Các chỉ số phân tích tài chính cho thấy, giá trị hiện tại ròng (NPV) đạt 55-58 triệu đồng/ha, tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR) đạt 32-33%, tỷ số lợi ích/chi phí (BCR) là 2,7-2,8 lần.

Đây là mức sinh lời cao so với nhiều mô hình sản xuất nông lâm nghiệp truyền thống trên cùng điều kiện đất đai, đặc biệt phù hợp với các hộ dân nghèo, hộ cận nghèo thiếu vốn và thiếu đất sản xuất màu mỡ.

Đối với người dân vùng U Minh Hạ (Cà Mau), trồng keo theo quy trình kỹ thuật đã giúp chuyển đổi sinh kế từ trồng tràm lấy củi sang trồng rừng nguyên liệu gỗ, tăng giá trị trên cùng đơn vị diện tích, tạo nguồn thu ổn định sau mỗi chu kỳ 4-6 năm.

Trồng keo - sinh kế phù hợp cho hộ nghèo vùng phèn

Một ưu điểm nổi bật của mô hình trồng rừng keo là yêu cầu lao động không quá cao, chi phí đầu tư ban đầu có thể phân kỳ, phù hợp với khả năng của hộ nghèo và hộ đồng bào dân tộc thiểu số.

Khi được hỗ trợ giống tốt, kỹ thuật làm đất và liên kết tiêu thụ, người dân có thể chủ động phát triển rừng trồng như một “tài sản tích lũy”, góp phần ổn định thu nhập và phòng ngừa tái nghèo.

Bên cạnh đó, rừng keo còn góp phần cải thiện môi trường sinh thái, hạn chế xói mòn, rửa trôi đất phèn, tạo việc làm thời vụ trong khâu trồng, chăm sóc, khai thác và vận chuyển gỗ. Đây là những tác động xã hội tích cực, phù hợp với mục tiêu giảm nghèo đa chiều trong Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững.

Định hướng nhân rộng mô hình gắn với giảm nghèo

Từ thực tiễn nghiên cứu và sản xuất, các nhà khoa học khẳng định, trồng rừng keo trên đất ngập phèn vùng Đồng bằng sông Cửu Long cần tiếp tục được phát triển theo hướng ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, trong đó trọng tâm là lựa chọn giống năng suất cao; chuẩn hóa kỹ thuật làm líp; xác định mật độ trồng hợp lý (2.500-3.333 cây/ha); gắn trồng rừng với chuỗi chế biến và thị trường tiêu thụ ổn định.

Đối với mục tiêu giảm nghèo, việc lồng ghép hỗ trợ trồng rừng keo vào các chính sách tín dụng ưu đãi, hỗ trợ sinh kế, phát triển lâm nghiệp bền vững sẽ giúp người dân vùng khó khăn tiếp cận mô hình hiệu quả này, từng bước nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống và thoát nghèo bền vững.

Thực tiễn tại Đồng bằng sông Cửu Long cho thấy, ứng dụng khoa học và công nghệ trong trồng rừng keo đã biến những vùng đất ngập chua phèn - vốn là “vùng trũng” về sinh kế - trở thành khu vực sản xuất lâm nghiệp có giá trị kinh tế cao.

Với năng suất tốt, hiệu quả tài chính rõ rệt và khả năng tạo sinh kế ổn định, trồng rừng keo không chỉ góp phần phát triển ngành lâm nghiệp mà còn là giải pháp giảm nghèo bền vững, phù hợp với điều kiện tự nhiên và yêu cầu phát triển xanh của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn tới./.

Nổi bật
    Mới nhất
    Ứng dụng khoa học và công nghệ trong trồng rừng keo: Giải pháp giảm nghèo bền vững trên vùng đất ngập phèn Đồng bằng sông Cửu Long