Diễn đàn

Tổng thuật: Hội nghị tổng kết công tác năm 2025 và triển khai nhiệm vụ năm 2026 của Khối Khoa học, Chiến lược, Hợp tác quốc tế và Pháp chế - Bộ KH&CN

Nhóm PV 20/12/2025 14:20

Thực hiện chương trình công tác năm 2025 của Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN), nhằm đánh giá toàn diện kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác năm 2025, đồng thời thảo luận, xác định phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm 2026, hôm nay ngày 20/12/2025, Khối Khoa học, Chiến lược, Hợp tác quốc tế và Pháp chế - Bộ KH&CN long trọng tổ chức Hội nghị tổng kết công tác năm 2025, triển khai nhiệm vụ năm 2026.

01ae6494cb8b44d51d9a.jpg
bd95edb642a9cdf794b8.jpg
a0b1bd8b12949dcac485.jpg
39609b593446bb18e257.jpg
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, Thứ trưởng Bùi Thế Duy và các đại biểu tham dự Hội nghị.
z7346590801722_d1c81a085cf42f646ac308f6684a417e.jpg
Toàn cảnh Hội nghị.

Hội nghị là dịp để các đơn vị trong Khối cùng nhìn nhận, đánh giá khách quan, toàn diện những kết quả đã đạt được; thẳng thắn chỉ ra những tồn tại, hạn chế; chia sẻ kinh nghiệm, mô hình hay, cách làm hiệu quả.

Đồng thời, các đơn vị trong khối đề xuất các giải pháp thiết thực, khả thi nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác trong thời gian tới, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ chung của ngành KH&CN.

3ea141b7e7a868f631b9.jpg
Toàn cảnh Hội nghị

14h15 - 14h30: CÁC ĐẠI BIỂU THAM DỰ

Tới dự và chỉ đạo Hội nghị, về phía Đảng ủy, Lãnh đạo Bộ KH&CN có:

Đồng chí Nguyễn Mạnh Hùng, Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bí thư Đảng ủy, Bộ trưởng Bộ KH&CN.

Đồng chí Bùi Thế Duy, Ủy viên dự khuyết BCH Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ KH&CN.

Về phía các đơn vị, tổ chức chính trị xã hội thuộc Bộ KH&CN:

Đồng chí Lê Hương Giang, Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ

Đồng chí Hoàng Thị Phương Lựu, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính

Đồng chí Hà Minh Hiệp, Chánh Văn phòng Bộ KH&CN

cùng các đồng chí đại diện Lãnh đạo các đơn vị trực thuộc Bộ.

Về phía Khối Khoa học, Chiến lược, Hợp tác quốc tế và Pháp chế:

Đồng chí Phạm Đình Nguyên, Giám đốc Học viện Chiến lược KH&CN

Đồng chí Trần Quốc Cường, Vụ trưởng Vụ Khoa học Xã hội, Nhân văn và Tự nhiên

Đồng chí Nguyễn Như Quỳnh, Vụ trưởng Vụ pháp chế

Đồng chí Nguyễn Thiện Nghĩa, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế

Đồng chí Vũ Đức Lợi, Viện trưởng Viện KH&CN Việt Nam - Hàn Quốc (VKIST)

Cùng các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo và cán bộ chủ chốt của các đơn vị thuộc Khối: Học viện Chiến lược KH&CN; Vụ Khoa học Xã hội, Nhân văn và Tự nhiên; Vụ Pháp chế; Vụ Hợp tác quốc tế; Viện KH&CN Việt Nam - Hàn Quốc.

anh-tap-the.jpg
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, Thứ trưởng Bùi Thế Duy chụp ảnh lưu niệm với các lãnh đạo và nguyên lãnh đạo của các đơn vị trong Khối
tap-the-3.jpg
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, Thứ trưởng thường trực Vũ Hải Quân, Thứ trưởng Bùi Thế Duy chụp ảnh lưu niệm với các cán bộ, viên chức trong Khối

14h30 - 14h45: BÁO CÁO TỔNG KẾT NĂM 2025, PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ NĂM 2026

Tại Hội nghị, ông Phạm Đình Nguyên, Giám đốc Học viện Chiến lược KH&CN trình bày Báo cáo Tổng kết công tác năm 2025 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2026 của Khối Khoa học, Chiến lược, Hợp tác quốc tế và Pháp chế.

1c982b8e8d9102cf5b80.jpg
Ông Phạm Đình Nguyên, Giám đốc Học viện Chiến lược KH&CN trình bày Báo cáo Tổng kết công tác năm 2025 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2026 của Khối Khoa học, Chiến lược, Hợp tác quốc tế và Pháp chế.

Năm 2025 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi Bộ Thông tin và Truyền thông và Bộ KH&CN thực hiện hợp nhất, sáp nhập thành Bộ KH&CN và chính thức có hiệu lực kể từ ngày 01/3/2025. Năm đơn vị trong Khối tổng kết hôm nay gồm: Vụ Pháp chế; Vụ Khoa học Xã hội, Nhân văn và Tự nhiên; Vụ Hợp tác quốc tế; Viện KH&CN Việt Nam - Hàn Quốc; Học viện Chiến lược KH&CN. Đây là những đơn vị mới được kiện toàn sau hợp nhất, sáp nhập. Hiện tại, Khối có tổng số 359 công chức và viên chức.

Trong thời gian vừa qua, các đơn vị trong Khối Khoa học, Công nghệ, Chiến lược, Hợp tác quốc tế và Pháp chế (sau đây viết tắt là Khối) đã nghiêm túc quán triệt phương châm chỉ đạo "Kỷ cương trách nhiệm; chủ động kịp thời; tinh gọn hiệu quả; tăng tốc bứt phá" của Chính phủ và phương châm hành động "Làm gương - Kỷ cương - Trọng tâm - Bứt phá" của Bộ KH&CN trong hoạt động, thực thi nhiệm vụ và đã đạt được một số kết quả nổi bật, tiêu biểu trong năm 2025 như sau:

Kết quả hoạt động nổi bật năm 2025

Công tác Đảng

Với sự chỉ đạo sát sao của Ban Chấp hành Đảng ủy Bộ, đồng chí Bí thư Đảng ủy Bộ, 5 Đảng bộ, Chi bộ của các đơn vị trong khối đã được thành lập mới trong năm 2025, và ngay sau đó đã tổ chức thành công Đại hội Đảng nhiệm kỳ 2025 - 2030.

Các Đảng bộ, chi bộ của các đơn vị trong khối bên cạnh nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác chuyên môn, đã nhanh chóng tham mưu cho Đảng ủy Bộ, Lãnh đạo bộ góp ý, đưa các chủ trương, định hướng, tư tưởng mới về phát triển KHCN, ĐMST và CĐS (từ Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024, Luật KHCN&ĐMST 2025, các chỉ đạo của đồng chí Bí thư Đảng ủy - Bộ trưởng, các đồng chí lãnh đạo Bộ KH&CN) đối với hơn 30 dự thảo hồ sơ văn kiện đại hội đảng của các cơ quan trung ương, tỉnh ủy, thành ủy.

Các Đảng bộ, Chi bộ của các đơn vị sự nghiệp trong Khối cũng đã chỉ đạo các tổ chức Đoàn Thanh niên, Công đoàn trực thuộc đại hội, kiện toàn tổ chức và nhanh chóng đi vào hoạt động.

Công tác quản lý nhà nước và thực hiện nhiệm vụ chính trị

Về xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật, các nhiệm vụ đã thực hiện gồm:

- Chủ trì, phối hợp xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành: 10 Luật, 1 Nghị quyết của Quốc hội, 18 Nghị định, 1 Nghị quyết của Chính phủ, 5 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 44 Thông tư.

- Tham mưu Chính phủ ban hành 02 Nghị quyết (số 03/NQ-CP ngày 09/01/2025 và số 04/2025/NQ-CP ngày 20/8/2025).

- Thực hiện góp ý 10 đề mục pháp điển.

Về tham mưu, tư vấn thực hiện chiến lược, quy hoạch, chính sách, các nhiệm vụ đã được thực hiện gồm:

- Tham mưu Thủ tướng phê duyệt Chiến lược phát triển đội ngũ trí thức đến 2030, tầm nhìn 2045 (phê duyệt 12/12/2025).

- Hoàn thành hồ sơ để Lãnh đạo Bộ trình Thủ tướng phê duyệt Chiến lược phát triển KHCN&ĐMST đến năm 2030 (sửa đổi, bổ sung).

- Xây dựng 5 báo cáo chiến lược, quy hoạch cấp Bộ/Chính phủ.

- Hoàn thành nhiệm vụ Thủ tướng giao: Hồ sơ Đề án đầu tư năng lực cho tổ chức R&D công lập giai đoạn 2025-2030.

Về quản lý và triển khai nghiên cứu KH&CN, các nhiệm vụ đã được thực hiện gồm:

- Triển khai 64 nhiệm vụ KH&CN: 47 nhiệm vụ ngân sách nhà nước; 7 nhiệm vụ ODA; 9 doanh nghiệp (DN) đặt hàng; 1 hợp tác nghiên cứu với DN;

- Ký 6 hợp đồng chuyển giao công nghệ; có hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng bằng độc quyền sáng chế, bằng độc quyền giải pháp hữu ích… Các DN cam kết doanh thu tối thiểu 130 tỷ đồng/5 năm.

- Thực hiện tái cấu trúc chương trình KH&CN quốc gia đến năm 2030.

Về quản lý và triển khai HTQT, các nhiệm vụ đã được thực hiện gồm:

- Tổ chức 38 đoàn lãnh đạo Bộ đi công tác; đón, tiếp 100 đoàn khách quốc tế.

- Ký 17 văn bản thỏa thuận hợp tác quốc tế: 1 hiệp định cấp Chính phủ với Hàn Quốc và 16 biên bản ghi nhớ (MoU) cấp Bộ.

- Xây dựng cơ sở dữ liệu (CSDL) 259 chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài từ 8 Văn phòng đại diện KH&CN.

- 222 quyết định cử cán bộ đi công tác nước ngoài (517 lượt cán bộ).

- Tuần lễ số quốc tế Việt Nam 2025: khoảng 800 đại biểu.

- Ký 6 Biên bản ghi nhớ hợp tác và Ý định thư (MoU/LoI) với trường đại học và DN Hàn Quốc.

- Thúc đẩy dự án hợp tác IRD (Pháp) xây dựng hệ thống trạm phao quan trắc môi trường biển tự động.

- Tham gia/đồng tổ chức sự kiện khoa học quốc tế (ICISE; LMS Global Meeting; IHP UNESCO tháng 10/2025).

Về công tác đào tạo, bồi dưỡng, các nhiệm vụ đã được thực hiện gồm:

- Tổ chức chương trình tập huấn trên nền tảng số cho cán bộ, công chức, viên chức (CB,CC,VC) cấp xã (1 - 15/12/2025): hơn 35.000 học viên.

- Tập huấn trực tuyến toàn quốc về phân cấp, phân quyền cho cán bộ Sở KH&CN và cấp xã tại 34 tỉnh/thành.

- Triển khai 18 lớp bồi dưỡng chức danh viên chức KH&CN và chức danh CNTT cho 2374 học viên; lớp STEM “0 đồng” (6 - 8/2025) có sự tham dự của 1.200 lượt học sinh.

- Tổ chức 15 chương trình đào tạo kỹ năng số, ứng dụng AI cho cán bộ công chức, viên chức của Bộ KHCN và các bộ, ngành, địa phương.

Về công tác tuyên truyền, tạp chí và xuất bản, các nhiệm vụ đã được Tạp chí KH&CN Việt Nam thực hiện gồm:

- Xuất bản 37 số tạp chí/năm, với 07 kỳ Tạp chí có các nội dung chuyên biệt, trong đó có 04 kỳ Tạp chí tiếng Việt (28 số/năm), 03 kỳ Tạp chí tiếng Anh (9 số/năm). Bên cạnh đó, còn vận hành Tạp chí điện tử và các chuyên trang A, B, C, D; thực hiện các nhiệm vụ R&D và các nhiệm vụ khác được Bộ trưởng giao.

- Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, lý luận chuyên ngành phục vụ công tác QLNN của Bộ KH&CN, công bố các kết quả nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực.

- Là Tạp chí uy tín quốc gia, được 26 Hội đồng Giáo sư ngành, liên ngành tính điểm công trình khoa học, trong đó có 20 Hội đồng Giáo sư tính điểm từ 0,75 - 1 điểm.

- Thực hiện các nhiệm vụ truyền thông chính sách với khoảng 2400 tin, bài đăng trên Tạp chí điện tử KH&CH Việt Nam và 200 bài trên Tạp chí KH&CN Việt Nam hàng tháng, phục vụ công tác QLNN của Bộ KH&CN.

Kết luận, Giám đốc Phạm Đình Nguyên nhấn mạnh:

Năm 2025, cả 5 cơ quan trong Khối đã bám sát chức năng, nhiệm vụ được giao; chủ động tham mưu và tổ chức thực hiện nhiệm vụ theo chương trình công tác và chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ. Kết quả nổi bật thể hiện ở khối lượng lớn công việc hoàn thiện thể chế - tham mưu chính sách; triển khai nhiệm vụ nghiên cứu, chuyển giao gắn với doanh nghiệp; mở rộng hợp tác quốc tế, huy động chuyên gia và nguồn lực; và mở rộng đào tạo, truyền thông thông qua chuyển đổi số.

14h45 - 15h30: THAM LUẬN CỦA CÁC ĐƠN VỊ

Nhằm làm rõ hơn những kết quả, kinh nghiệm thực tiễn cũng như đề xuất giải pháp công tác năm 2026, Hội nghị tiếp tục với phần tham luận của các đơn vị.

Vụ trưởng Vụ Khoa học Xã hội, Nhân văn và Tự nhiên Trần Quốc Cường trình bày tham luận với chủ đề "Đóng góp của khoa học xã hội và nhân văn đối với mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số”.

e4e669a337bdb8e3e1ac.jpg
Ông Trần Quốc Cường, Vụ trưởng Vụ Khoa học Xã hội, Nhân văn và Tự nhiên trình bày tham luận tại Hội nghị.

Yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới

Đảng và Nhà nước ta đã xác định mục tiêu đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, có thu nhập cao. Đây là khát vọng lớn, thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ và tầm nhìn chiến lược dài hạn của Đảng đối với sự phát triển của đất nước.

Để hiện thực hóa khát vọng đó, yêu cầu cấp thiết đặt ra là Việt Nam phải đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, liên tục, ổn định và bền vững trong các thập niên tới. Trong bối cảnh đó, mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số trong giai đoạn tới không chỉ là tham vọng, mà là đòi hỏi thực tiễn, nhằm: (i) thu hẹp nhanh khoảng cách phát triển với các quốc gia đi trước, hóa giải nguy cơ tụt hậu; (ii) tăng cường năng lực nội sinh, sức chống chịu, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; (iii) tạo dựng vị thế xứng đáng của Việt Nam trên trường quốc tế.

Tuy nhiên, thách thức đặt ra là rất lớn. Nền kinh tế đang chịu áp lực từ quá trình già hóa dân số, trong khi thời gian của cơ cấu “dân số vàng” chỉ còn kéo dài khoảng một thập kỷ. Đồng thời, yêu cầu rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước đi trước đòi hỏi phải duy trì tốc độ tăng trưởng cao và ổn định trong thời gian dài. Thực tiễn quốc tế cho thấy, các quốc gia như Nhật Bản và Hàn Quốc chỉ có thể vươn lên nhóm nước phát triển nhờ duy trì tăng trưởng cao, liên tục, gắn với cải cách thể chế, nâng cao năng suất và đổi mới mô hình phát triển.

Nhận thức rõ yêu cầu đó, ngay từ đầu năm 2025, Đảng và Nhà nước đã đề ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế đạt trên 8% trong năm 2025, tạo nền tảng vững chắc để phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng từ 10% trở lên trong các năm tiếp theo, bắt đầu từ năm 2026. Mục tiêu này mang ý nghĩa chiến lược, tạo đà cho tăng trưởng nhanh và bền vững trong giai đoạn 2026 - 2045.

Bối cảnh quốc tế, trong nước và yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng

Giai đoạn tới, bối cảnh thế giới tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp và khó dự báo. Xung đột vũ trang xảy ra tại nhiều khu vực, nguy cơ lan rộng và kéo dài. Xu hướng toàn cầu hóa dựa trên luật lệ và thương mại tự do bị thách thức; chiến tranh thương mại, chính sách thuế đối ứng và các biện pháp bảo hộ gia tăng. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và các trung tâm quyền lực tiếp tục điều chỉnh mạnh mẽ, tác động sâu rộng đến kinh tế toàn cầu.

Là nền kinh tế có độ mở lớn, Việt Nam chịu tác động trực tiếp từ những biến động này đối với tăng trưởng, xuất khẩu, đầu tư và ổn định kinh tế vĩ mô. Trong nước, nền kinh tế vẫn tồn tại nhiều điểm nghẽn về thể chế, hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực và năng lực tự chủ; nguy cơ tụt hậu về công nghệ và rơi vào bẫy thu nhập trung bình vẫn hiện hữu.

Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã xác lập các định hướng chiến lược mới nhằm chuyển đổi mô hình tăng trưởng, lấy nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh làm trọng tâm; lấy khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chủ yếu; đồng thời thúc đẩy chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và chuyển đổi năng lượng. Những định hướng này đòi hỏi nền kinh tế phải vận hành trên một nền tảng thể chế hiện đại, hiệu quả và phù hợp với yêu cầu phát triển nhanh, bền vững.

Vai trò nền tảng của khoa học xã hội và nhân văn

Trong tổng thể các động lực tăng trưởng mới, khoa học xã hội và nhân văn (KHXH&NV) giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Đây là lĩnh vực cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật và quản trị quá trình phát triển dài hạn của đất nước; đồng thời nghiên cứu các vấn đề về con người, văn hóa, lịch sử, tư tưởng, đạo đức và các giá trị xã hội - những yếu tố quyết định chất lượng và chiều sâu của phát triển.

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030 đã khẳng định yêu cầu thúc đẩy phát triển mạnh mẽ KHXH&NV, gắn kết chặt chẽ với khoa học tự nhiên và công nghệ trong quá trình triển khai các nhiệm vụ phát triển. Trong bối cảnh hướng tới tăng trưởng hai con số, đóng góp cốt lõi của KHXH&NV thể hiện rõ nhất thông qua hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng quản trị và khơi dậy các động lực xã hội cho phát triển. Cụ thể là:

Thứ nhất, KHXH&NV góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực phát triển thông qua hoàn thiện thể chế đầu tư công. Việc Quốc hội nhiều lần sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư công trong hơn một thập kỷ qua đã thiết lập các quy định chặt chẽ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư, góp phần khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán và kéo dài. Qua đó, hiệu quả sử dụng vốn từng bước được cải thiện.

Thứ hai, KHXH&NV góp phần tháo gỡ các điểm nghẽn thể chế, tạo điều kiện để các chính sách phát triển phát huy hiệu quả trong thực tiễn. Môi trường pháp lý ổn định, minh bạch và nhất quán là điều kiện tiên quyết để thu hút đầu tư tư nhân, phát triển hạ tầng theo mô hình đối tác công - tư và thúc đẩy chuyển đổi số. Các nghị quyết chiến lược của Bộ Chính trị trong thời gian qua đã tạo khuôn khổ pháp lý và củng cố niềm tin cho các chủ thể kinh tế.

Thứ ba, thông qua hoàn thiện thể chế, KHXH&NV góp phần xây dựng và củng cố niềm tin - một loại vốn mềm đặc biệt quan trọng của nền kinh tế thị trường hiện đại. Niềm tin của doanh nghiệp, người dân và nhà đầu tư nước ngoài bắt nguồn từ chất lượng thể chế. Thực tế năm 2025 cho thấy, dòng vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng; chỉ số niềm tin kinh doanh phục hồi rõ nét, phản ánh sự cải thiện trong đánh giá quốc tế đối với triển vọng phát triển của Việt Nam. Sự cải thiện này cũng lan tỏa trong khu vực doanh nghiệp trong nước, thể hiện qua số lượng doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động tăng cao.

Thứ tư, quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo động lực mới cho tăng trưởng. Trong năm 2025, Quốc hội thông qua số lượng lớn các luật và nghị quyết quan trọng, giải quyết nhiều vấn đề khó và phức tạp. Những kết quả này được hình thành trên cơ sở tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận và tham khảo kinh nghiệm quốc tế, thể hiện rõ vai trò của KHXH&NV trong hoạch định chính sách.

Một số định hướng phát huy vai trò của KHXH&NV trong thời gian tới

- Tiếp tục nhận thức đầy đủ, toàn diện vai trò nền tảng của KHXH&NV trong xây dựng đường lối, chính sách và quản trị phát triển đất nước.

- Thúc đẩy sự gắn kết giữa KHXH&NV với khoa học tự nhiên và công nghệ trong bối cảnh các lĩnh vực khoa học ngày càng tích hợp sâu, nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, năng suất lao động và năng lực đổi mới sáng tạo.

- Tiếp tục phát triển thị trường khoa học và công nghệ, trong đó có thị trường KHXH&NV, gắn nghiên cứu với thực tiễn hoạch định chính sách và phát triển kinh tế - xã hội.

Mục tiêu, nhiệm vụ và các hành động trọng tâm năm 2026

Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị đã xác định yêu cầu tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Trong tổng thể đó, KHXH&NV vừa giữ vai trò nền tảng về tư duy, thể chế và con người, vừa cần được tổ chức, quản lý và đầu tư theo cách thức mới, gắn trực tiếp với yêu cầu tăng trưởng kinh tế hai con số giai đoạn 2026 - 2030.

Năm 2026 cần được xác định là năm bản lề, chuyển mạnh từ định hướng sang hành động cụ thể, đo lường được và có tác động thực chất, làm sao để đến năm 2030, lĩnh vực KHXH&NV sẽ đạt được mục tiêu:

- Trở thành nguồn cung cấp luận cứ khoa học chủ yếu cho việc thiết kế, điều chỉnh và giám sát chính sách, nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng GDP trên 10%/năm;

- Góp phần nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường, gia tăng đóng góp của TFP vào tăng trưởng;

- Tạo nền tảng xã hội, văn hóa và nguồn nhân lực để khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phát huy hiệu quả.

Năm 2026 là năm đầu tiên triển khai toàn diện Nghị quyết số 57-NQ/TW và mở ra giai đoạn phát triển mới. Từ góc độ quản lý nhà nước, Vụ Khoa học Xã hội, Nhân văn và Tự nhiên nhấn mạnh 5 thông điệp hành động trọng tâm:

Thứ nhất, chuyển mạnh từ “nghiên cứu để biết” sang “nghiên cứu để hành động”, gắn trực tiếp với các bài toán lớn của tăng trưởng hai con số.

Thứ hai, thiết lập quy trình mới trong quản lý nhà nước đối với KHXH&NV, thực hiện cơ chế đặt hàng theo mục tiêu chiến lược và gắn trách nhiệm với hiệu quả sử dụng kết quả nghiên cứu.

Thứ ba, đưa KHXH&NV vào trung tâm của quá trình hoạch định chính sách phát triển, coi đây là cấu phần bắt buộc trong xây dựng chiến lược, quy hoạch và các chương trình lớn.

Thứ tư, thúc đẩy mạnh mẽ nghiên cứu liên ngành phục vụ điều hành tăng trưởng, kết hợp KHXH&NV với khoa học dữ liệu, trí tuệ nhân tạo và khoa học quản lý.

Thứ năm, khẳng định vai trò tư vấn, phản biện chính sách của KHXH&NV, góp phần nâng cao chất lượng quyết sách và củng cố đồng thuận xã hội.

Kết luận

KHXH&NV không trực tiếp tạo ra tăng trưởng bằng sản xuất hàng hóa, mà bằng việc làm cho toàn bộ hệ thống kinh tế vận hành hiệu quả hơn, thông minh hơn và bền vững hơn, thông qua nâng cao chất lượng thể chế, hành vi kinh tế, năng suất tổng hợp và niềm tin xã hội. Trong tiến trình hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số và khát vọng phát triển đến năm 2045, KHXH&NV tiếp tục là một trụ cột quan trọng, góp phần tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.

Tiếp theo, Vụ trưởng Vụ Pháp chế Nguyễn Như Quỳnh trình bày tham luận với chủ đề "Đổi mới tư duy trong xây dựng pháp luật khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”.

eb559b29cb3744691d26.jpg
Bà Nguyễn Như Quỳnh, Vụ trưởng Vụ Pháp chế trình bày tham luận tại Hội nghị.

Bộ đã ban hành 150 văn bản quy phạm pháp luật: Trình Quốc hội thông qua 10 Luật1 Nghị quyết; trình Chính phủ ban hành 19 Nghị định12 Nghị quyết; trình Thủ tướng Chính phủ ban hành 39 Quyết định; đã ban hành 47 Thông tư (trên tổng số 69 Thông tư). Đây là những con số ấn tượng.

Đổi mới tư duy trong xây dựng pháp luật

Thứ nhất, bảo đảm quản lý, đồng thời kiến tạo phát triển.

Thứ hai, chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm, tăng kiểm tra, giám sát.

Thứ ba, chấp nhận rủi ro trong hoạt động KHCN, ĐMST.

Thứ tư, pháp luật bắt nguồn từ thực tiễn và quay trở lại phục vụ ngay cho thực tiễn.

Thứ năm, đường lối, chính sách mới của đảng (đặc biệt Nghị quyết 57) được thể chế hóa nhanh chóng bằng pháp luật.

Thứ sáu, có các luật mới so với thế giới: Luật Chuyển đổi số, Luật Trí tuệ nhân tạo.

Bà Nguyễn Như Quỳnh Nhấn mạnh: Nhiều văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng theo trình tự, thủ tục rút gọn (cả 5 Luật do Bộ KH&CN chủ trì được thông qua tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội Khóa XV) và trình tự đặc biệt (Luật Trí tuệ nhân tạo).

Cùng với đó, công tác xây dựng pháp luật của Bộ KH&CN đã được tăng cường chuyển đổi số, sử dụng AI trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

Thường vụ Đảng ủy, Bộ trưởng, lãnh đạo Bộ và Thủ trưởng đơn vị đóng vai trò định hướng, dẫn dắt.

Trong công tác xây dựng pháp luật, Bộ vừa xây dựng pháp luật vừa tổ chức rà soát văn bản, hệ thống văn bản pháp luật; tổ chức pháp chế phải chủ trì xây dựng văn bản nhiều hơn.

Xây dựng pháp luật theo chuyên đề phục vụ chủ trương, đường lối lớn/bước ngoặt của Đảng và Chính phủ: vận hành chính quyền địa phương 2 cấp; cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh.

Vụ Pháp chế ghi nhớ chỉ đạo của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng: Bên cạnh việc xây dựng pháp luật, Vụ cần phải thúc đẩy mạnh mẽ việc thi hành pháp luật. Theo đó, một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Vụ trong năm 2026 là đẩy mạnh công tác thực thi pháp luật.

Viện trưởng Viện KH&CN Việt Nam - Hàn Quốc Vũ Đức Lợi trình bày tham luận với chủ đề “Kinh nghiệm xây dựng công nghệ chiến lược của Hàn Quốc: Bài học cho các Viện - Trường Việt Nam”.

0a77cf088d1602485b07.jpg
Viện trưởng Viện KH&CN Việt Nam - Hàn Quốc Vũ Đức Lợi trình bày tham luận tại Hội nghị.

Hàn Quốc đưa ra tầm nhìn trở thành quốc gia có chủ quyền KH&CN vượt trội

Hàn Quốc lấy sứ mệnh tổng hợp toàn bộ năng lực quốc gia để đối phó với cạnh tranh công nghệ; tạo động lực tăng trưởng thông qua liên kết với các ngành công nghiệp và đối phó với các thách thức an ninh công nghệ.

Hàn Quốc tập trung phát triển 12 công nghệ chiến lược: (1) Chất bán dẫn và màn hình; (2) pin thứ cấp; (3) mạng thế hệ tiếp theo; (4) trí tuệ nhân tạo; (5) công nghệ sinh học; (6) năng lượng hạt nhân; (7) di chuyển tiên tiến; (8) robot và sản xuất tiên tiến; (9) an ninh mạng; (10) hàng không vũ trụ và hàng hải; (11) hydro; (12) lượng tử.

Hàn Quốc đặt mục tiêu:

Đột phá công nghệ: 3 - 6 lĩnh vực dẫn đầu thế giới trong 12 công nghệ chiến lược quốc gia.

Tăng trưởng tương lai: 15 doanh nghiệp cấp độ kỳ lân công nghệ dựa trên công nghệ chiến lược quốc gia.

Ngành công nghiệp chủ lực: Giữ vững vị trí số 1 trong bán dẫn bộ nhớ, pin thứ cấp và màn hình thế hệ tiếp theo.

Nhân tố thay đổi cuộc chơi: Nhảy vọt vào nhóm G3 về AI-bán dẫn, công nghệ sinh học tiên tiến và lượng tử.

Để phát triển công nghệ chiến lược, Hàn Quốc xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, chẳng hạn như để phát triển pin thứ cấp thì Hàn Quốc thông qua luật tái chế tài nguyên. Tháng 10/2025, Hàn Quốc tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp bằng nguồn vốn trái phiếu, sửa đổi luật Ngân hàng Hàn Quốc để phát triển công nghệ chiến lược.

Nguồn nhân lực tăng đều đặn để phát triển công nghệ chiến lược:

nhan-luc-han-quoc.png

Đầu tư R&D của Hàn Quốc cũng tăng:

dau-tu-r-d.png

Thương mại hoá công nghệ:

thuong-mai-hoa.png

Bài học

Viện VKIST tham gia phát triển 11 công nghệ chiến lược của Việt Nam, trong đó VKIST tập trung phát triển công nghệ môi trường năng lượng và phát triển pin thứ cấp. Bắt đầu từ tháng 5/2025, VKIST đã hợp tác với các bên để phát triển các công nghệ chiến lược như Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, Đại học Phennika, Đại học Bách khoa, Học viện Kỹ thuật Quân sự… và các doanh nghiệp như Vinfast và Tập đoàn Hoá chất Đức Giang. Viện cũng hợp tác với nhiều chuyên gia quốc tế, đặc biệt là chuyên gia Hàn Quốc .

Viện mong muốn đẩy mạnh chia sẻ hạ tầng dùng chung, phòng thí nghiệm trọng điểm; huy động nguồn lực toàn cầu; cơ chế quản lý sản phẩm đầu ra; phối hợp nguồn lực trên toàn quốc.

Đại diện Vụ Hợp tác Quốc tế (HTQT), Vụ trưởng Nguyễn Thiện Nghĩa trình bày tham luận với chủ đề “Cách tiếp cận mới trong tham gia các tổ chức quốc tế chuyên ngành”.

gen-h-z7346847256116_4230262dea8ecafbd27a8c5e7e497e96.jpg
Ông Nguyễn Thiện Nghĩa, Vụ trưởng Vụ HTQT trình bày tham luận tại Hội nghị.

Việt Nam đang tham gia hơn 30 tổ chức quốc tế chuyên ngành, bao gồm Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU), Liên minh Bưu chính thế giới (UPU), Tổ chức Sở hữu Trí tuệ thế giới (WIPO), IAEA, Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế (ISO), ...

Vụ HTQT của Bộ không chỉ là vấn đề ngoại giao hình thức, mà là nhu cầu sống còn bởi 4 lý do:

Thứ nhất, đồng bộ hóa để "nói cùng ngôn ngữ" với thế giới.

Thứ hai, bảo vệ chủ quyền và tài nguyên quốc gia.

Thứ ba, ứng phó với hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT).

Thứ tư, tiếp cận nguồn lực hỗ trợ kỹ thuật.

Việt Nam cũng tham gia rất tốt vào 6 tổ chức chuyên ngành: Chủ tịch Nhóm chuyên gia PRET của APPU 2025 ; Phó Chủ tịch Nhóm nghiên cứu 1 của ITU-D (giao đoạn 2026 - 2029); Phó Chủ tịch Nhóm chuẩn bị của APT WTDC-25; ASEAN: ADM 2026 - 2030; APEC: STI APEC 2026 - 2035; ISO: Chủ trì 1 trong 24 Ban Kỹ thuật của ISO (Ban kỹ thuật về cao su).

Đại diện Vụ HTQT đề xuất 4 giải pháp của công tác HTQT trong giai đoạn tới:

Thứ nhất, chọn lĩnh vực ngách.

Thứ hai, đưa nhân sự vào bộ máy điều hành: Dựa trên đặc thù của Việt Nam, xây dựng kỹ sư ngoại giao vừa có trình độ và có kỹ năng ngoại giao.

Thứ ba, thúc đẩy các doanh nghiệp cùng tham gia các tổ chức quốc tế.

Thứ tư, mở rộng viện trợ kỹ thuật: Thay vì khai thác viện trợ quốc tế, chúng ta tham gia viện trợ cho các nước trong khu vực thì uy tín của Việt Nam tăng lên.

Bà Nguyễn Thị Hương Giang, Phó Giám đốc Học viện Chiến lược KH&CN, Tổng Biên tập Tạp chí KH&CN Việt Nam trình bày tham luận với chủ đề "Tạp chí KH&CN Việt Nam với sứ mệnh phụng sự KH&CN Việt Nam, hội nhập quốc tế".

tbt.jpg
Bà Nguyễn Thị Hương Giang, Phó Giám đốc Học viện Chiến lược KH&CN, Tổng Biên tập Tạp chí KH&CN Việt Nam.

Bà Nguyễn Thị Hương Giang nhấn mạnh sứ mệnh của Tạp chí KH&CN Việt Nam trong công tác phục vụ quản lý nhà nước của Bộ KH&CN, đặc biệt trong bối cảnh sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, thực hiện các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước.

Tham luận tập trung vào những giá trị mà Tạp chí có thể mang lại và có thể đóng góp nhiều hơn nữa, để phục vụ cho công tác quản lý nhà nước của Bộ trong giai đoạn phát triển mới.

Quản lý khoa học là quản lý bằng tri thức

KH&CN là lĩnh vực đặc thù, nơi quản lý nhà nước không thể chỉ dựa vào mệnh lệnh hành chính, mà phải dựa trên tri thức khoa học, bằng chứng nghiên cứu và sự đồng thuận học thuật.

Trong bối cảnh đó, cùng với các công cụ pháp lý và tổ chức, Bộ KH&CN rất cần những thiết chế trung gian về tri thức (công cụ mềm, cầu nối), có khả năng kết nối giữa nghiên cứu khoa học, hoạch định chính sách và thực tiễn triển khai. Tạp chí chính là công cụ trung gian này.

Tạp chí phân tích cơ sở khoa học của chính sách, tổng kết thực tiễn và phản biện chuyên môn. Qua đó, Tạp chí hỗ trợ nâng cao chất lượng hoạch định và điều hành chính sách KH&CN. Đó cũng là lý do mà Chính phủ quy định cơ cấu cứng của các bộ, ngành có tạp chí.

Chức năng và vai trò đặc thù của Tạp chí KH&CN Việt Nam

Sứ mệnh lịch sử

Từ ngày 16/6/2025, Tạp chí KH&CN Việt Nam được tổ chức lại trên cơ sở hợp nhất Tạp chí KH&CN Việt Nam trực thuộc Bộ KH&CN và Tạp chí TT&TT trực thuộc Bộ TT&TT, trở thành đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Học viện Chiến lược KH&CN.

Được hợp nhất từ 2 Tạp chí danh giá, có truyền thống lịch sử lâu đời (1 Tạp chí ra đời năm 1959 cùng với Ủy ban Khoa học Nhà nước, với tên gọi ban đầu là Tờ Tin tức Hoạt động Khoa học; 1 Tạp chí ra đời từ năm 1962 với tên gọi ban đầu là Tập san Kỹ thuật Bưu điện, Truyền thanh).

Sứ mệnh lịch sử xuyên suốt của Tạp chí là thực hiện chức năng thông tin tuyên truyền, lý luận chuyên ngành phục vụ công tác quản lý nhà nước của Bộ KH&CN, và công bố các kết quả nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực.

Điều này cho thấy ngay từ đầu, Tạp chí không được thiết kế như một tạp chí học thuật thuần túy, mà là một công cụ hỗ trợ quản lý nhà nước bằng tri thức khoa học.

Vai trò cốt lõi của Tạp chí là: Diễn giải và làm rõ cơ sở khoa học của các chủ trương, chiến lược, chính sách KH&CN; tạo không gian phản biện khoa học có trách nhiệm đối với chính sách KH&CN; hệ thống hóa tri thức phục vụ điều chỉnh, hoàn thiện và đánh giá chính sách. Nói cách khác, Tạp chí là nơi khoa học đi vào chính sách, và chính sách được soi chiếu bằng khoa học.

Sứ mệnh hiện nay của Tạp chí (Bộ trưởng Bộ KH&CN đã quy định tại Quyết định số 1498/QĐ-BKHCN ngày 27/6/2025): Vừa là tạp chí khoa học, vừa là tạp chí chuyên ngành về 3 lĩnh vực trụ cột là: KHCN, ĐMST và CĐS.

Như Bộ trưởng đã nói: “Sứ mệnh của Tạp chí rất lớn, đòi hỏi phải có những bài viết chuyên sâu, bài lý luận, không chỉ là nghiên cứu mà còn cả thể chế, chính sách, phổ biến kinh nghiệm hay, cách làm tốt cả trong nước và quốc tế cho xã hội”.

Tính chuyên biệt và không thể thay thế của Tạp chí - Phụng sự cho KH&CN

Một đặc thù rất quan trọng của Tạp chí là tính chuyên biệt và tập trung.

Toàn bộ dung lượng nội dung của Tạp chí dành cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở các cấp: Trung ương, địa phương, DN, người dân; cho phép theo dõi một vấn đề KH&CN xuyên suốt và liên tục, từ lý luận, nghiên cứu, chính sách đến triển khai.

Nhờ đó, Tạp chí duy trì được một không gian lý luận chuyên ngành ổn định, phục vụ trực tiếp cho yêu cầu quản lý nhà nước của Bộ KH&CN.

Đây là đặc thù của Tạp chí KH&CN Việt Nam mà các kênh thông tin tổng hợp và báo chí khác - dù rất quan trọng - nhưng khó có thể đảm nhiệm một cách đầy đủ và liên tục.

Liên tục đổi mới, nỗ lực trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ

Ngay sau hợp nhất, Tạp chí đã thực hiện cải tiến cấu trúc nội dung Tạp chí điện tử vjst.vn phù hợp với chức năng nhiệm vụ mới của Bộ KH&CN, bảo đảm tốt công tác truyền thông và phục vụ công tác quản lý nhà nước của Bộ KH&CN.

Tạp chí điện tử có giao diện đảm bảo bố cục trực quan, dễ truy cập trên cả máy tính và thiết bị di động, theo triết lý thân thiện với các thiết bị di động. Hệ thống các chuyên mục dựa trên 3 trụ cột then chốt là: Khoa học, Công nghệ, Đổi mới sáng tạo và Chuyển đổi số, bám sát các nội dung phục vụ công tác quản lý nhà nước của Bộ như: Tiêu chuẩn đo lường chất lượng, sở hữu trí tuệ, năng lượng nguyên tử, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, KH&CN địa phương…

Đây cũng chính là một số nhiệm vụ mà Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đã giao cho Tạp chí thực hiện kể từ sau hợp nhất.

Tạp chí cũng đang bắt đầu mở rộng các kênh tiếp cận (đa kênh) thông qua Multimedia với các tin, bài dạng infographic, podcast, video clip, video ngắn...; phổ biến thông tin trên các nền tảng đang thu hút sự quan tâm của xã hội như: Youtube, Tiktok, Zalo OA, Linkedin, X, Facebook.

Hội nhập quốc tế

Xác định được vị trí, vai trò và yêu cầu tất yếu trong bối cảnh KH&CN phát triển nhanh, tri thức mang tính toàn cầu và cạnh tranh học thuật ngày càng gay gắt, Tạp chí KH&CN Việt Nam luôn chú trọng công tác hội nhập quốc tế.

Tạp chí có 3 ấn phẩm xuất bản hoàn toàn bằng tiếng Anh, công bố các kết quả nghiên cứu trong các lĩnh vực KH&CN, góp phần thúc đẩy hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực KH&CN của Việt Nam:

1) Vietnam Journal of Science, Technology and Engineering (Xuất bản 04 số/năm): Đăng tải các bài báo khoa học và Tổng quan bằng tiếng Anh trong các lĩnh vực: Toán học và máy tính; khoa học vật lý; khoa học sự sống; khoa học trái đất; khoa học môi trường. Tạp chí được 16 Hội đồng GS tính điểm công trình khoa học từ 0,75 đến 1 điểm, trong đó có 15 Hội đồng GS tính điểm tối đa.

2) VMOST Journal of Social Sciences and Humanities (Xuất bản 03 số/năm): Đăng tải các bài báo khoa học và tổng quan bằng tiếng Anh trong các lĩnh vực Khoa học xã hội và Nhân văn. Tạp chí đã được 08 Hội đồng GS ngành, liên ngành trong các lĩnh vực KHXH&NV tính điểm công trình khoa học.

3) Journal of Research and Development on Information and Communication Technology (Chuyên san Các công trình Nghiên cứu, Phát triển và Ứng dụng Công nghệ Thông tin và Truyền thông bản tiếng Anh): Đăng tải các bài báo khoa học và Tổng quan bằng tiếng Anh trong các lĩnh vực Công nghệ Thông tin và Truyền thông. Tạp chí được các Hội đồng GS ngành công nghệ thông tin, truyền thông; điện - điện tử, tự động hóa tính điểm công trình khoa học ở mức điểm tối đa.

Quốc tế hóa tác giả, thành viên Hội đồng biên tập, chuyên gia phản biện của Tạp chí

- Tỷ lệ quốc tế hoá tác giả của Tạp chí đang tăng trưởng với các ấn phẩm bằng tiếng Anh.

- Tỷ lệ các nhà khoa học quốc tế tham gia Hội đồng biên tập và công tác phản biện của Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam bản C (Vietnam Journal of Science, Technology and Engineering) đã đạt trên 50%, tương đương các Tạp chí quốc tế khác.

- Với Hệ thống xuất bản trực tuyến quốc tế, chuyên nghiệp ScholarOne Manuscripts, 100% các chuyên gia phản biện của Tạp chí là các nhà khoa học của cơ sở dữ liệu quốc tế WoS.

EN-VIST: Tạp chí điện tử KH&CN Việt Nam đã bước đầu nâng cao số lượng và chất lượng biên dịch tin/bài cập nhật trong các lĩnh vực KH&CN của quốc tế sang tiếng Việt, đồng thời dịch các thông tin hoạt động nổi bật của Bộ KH&CN và Lãnh đạo Bộ KH&CN sang tiếng Anh, góp phần quảng bá, tuyên truyền thông tin khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo ra quốc tế.

Tạp chí điện tử vjst.vn đang nỗ lực phấn đấu có phiên bản tiếng Anh toàn diện và chuyên nghiệp. Dự kiến năm 2026 đi vào vận hành chính thức.

Kết luận và đề xuất, kiến nghị

Vai trò của Tạp chí trong Hệ sinh thái phục vụ công tác QLNN của Bộ KH&CN

Sau khi hợp nhất về Học viện Chiến lược KH&CN, Tạp chí đã nhận được nhiều hỗ trợ tích cực, đặc biệt là về chiều sâu học thuật và tiếp cận các nghiên cứu chiến lược.

Tuy nhiên, từ thực tiễn hoạt động, chúng tôi nhận thấy: Với một cơ quan báo chí có chức năng phục vụ trực tiếp công tác quản lý nhà nước, hiệu quả hoạt động và vai trò của Tạp chí phụ thuộc rất lớn vào mức độ gắn kết với hoạt động điều hành, xây dựng và thực thi chính sách của Bộ.

Do đó, việc hoàn thiện mô hình tổ chức theo hướng bảo đảm sự gắn kết trực tiếp, thường xuyên và kịp thời với Bộ là yếu tố then chốt để Tạp chí phát huy đầy đủ chức năng, nhiệm vụ đã được giao.

Một số đề xuất, kiến nghị

Để thực hiện tốt sứ mệnh Phụng sự KH&CN, hội nhập quốc tế, Tạp chí KH&CN Việt Nam có một số đề xuất, kiến nghị sau:

- Tạp chí kính mong tiếp tục nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Bộ trưởng, Lãnh đạo Bộ, Giám đốc Học viện Chiến lược KH&CN và các đơn vị trong Bộ để Tạp chí thể hiện tốt nhất vai trò của mình trong Hệ sinh thái phục vụ công tác QLNN của Bộ KH&CN.

- Kính mong Lãnh đạo Bộ và các đơn vị liên quan ủng hộ và tạo điều kiện để Tạp chí được ứng dụng các công cụ hiện đại, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong xuất bản Tạp chí điện tử, xây dựng phiên bản tiếng Anh cho Tạp chí điện tử KH&CN Việt Nam, phục vụ tốt nhất cho công tác lý luận, tuyên truyền cho ngành KH&CN.

- Tạp chí mong muốn được kiện toàn, bổ sung nhân lực, sớm tổ chức tuyển viên chức để Tạp chí có thể tuyển dụng các nhân sự trẻ và xuất sắc, bổ sung nguồn lực hỗ trợ kỹ thuật và nhân sự đa phương tiện (multimedia), giỏi ngoại ngữ, giỏi các kỹ năng báo chí hiện đại để có thể làm tốt chức năng thông tin, tuyên truyền, lý luận chuyên ngành, phục vụ hiệu quả công tác quản lý nhà nước của Bộ KH&CN.

- Tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ của Tạp chí được tham gia các khóa học nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp trong và ngoài nước.

- Hỗ trợ Tạp chí trong hoạt động hợp tác quốc tế, tạo điều kiện để các cán bộ của Tạp chí được tham gia dự các hội thảo, hoạt động đào tạo về xu hướng báo chí KH&CN tại khu vực và quốc tế, kết nối các nhà khoa học trong và ngoài nước.

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh yêu cầu “đưa Tạp chí KH&CN Việt Nam trở về trực thuộc Bộ KH&CN”

Đại diện Vụ Tổ chức Cán bộ, Văn phòng Bộ KH&CN phát biểu tại Hội nghị.

ba-le-huong-giang.jpg
Bà Lê Hương Giang, Vụ trưởng Vụ Tổ chức Cán bộ phát biểu tại Hội nghị.
ong-ha-minh-hiep.jpg
Ông Hà Minh Hiệp, Chánh Văn phòng Bộ phát biểu tại Hội nghị.

Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị.

Tiếp theo chương trình, Thứ trưởng Bùi Thế Duy phát biểu về công tác của Khối trong năm qua, cũng như những định hướng công tác cho toàn Khối trong thời gian tới.

Thứ trưởng trân trọng sự cố gắng của các cán bộ thuộc 5 đơn vị. Các cán bộ đã làm việc hàng đêm, nhiều tháng để hoàn thành các công việc.

thu-truong-bui-the-duy.jpg
Thứ trưởng Bùi Thế Duy phát biểu tại Hội nghị.

Trong năm 2026, Thứ trưởng nhấn mạnh 5 đơn vị của Khối cần tập trung vào một số vấn đề, đặc biệt là phải đổi mới đích đến (KPI); phải hướng đến cách làm mới - bởi khối lượng công việc tăng lên, người thì lại giảm nên không thể duy trì cách làm cũ là tăng thời gian và con người, thay vào đó phải dùng các công cụ hỗ trợ và tổ chức lại công việc.

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu chỉ đạo Hội nghị

Năm 2025 là một năm đặc biệt đối với Bộ KH&CN. Năm 2025 cũng là năm đặc biệt khi 2 Bộ (TT&TT và KH&CN) hợp nhất, theo đó, sứ mệnh lớn hơn, quy mô của Bộ cũng lớn hơn.

bt-2.jpg
Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị.

Theo Bộ trưởng, hợp nhất không chỉ là việc cộng lại mà là sự cộng hưởng, khi khoa học, công nghệ và chuyển đổi số thành bộ 3, động lực chính để phát triển đất nước.

"Tôi đánh giá cao nỗ lực của 5 đơn vị trong năm 2025. Các đơn vị không chỉ thực hiện tốt nhiệm vụ thường xuyên mà cả những việc lần đầu tiên thực hiện, khi Bộ triển khai bộ máy, cách thức làm việc mới. Đây là điều rất đáng trân trọng" - Bộ trưởng nhấn mạnh.

toan-canh-2.jpg
Toàn cảnh Hội nghị

Bộ trưởng bày tỏ sự trân trọng và ghi nhận đóng góp của các cán bộ trong Khối vì sự tận tâm, tận lực trong thời gian qua.

Hội nghị đã kết thúc vào lúc 17h30./.

Nổi bật
    Mới nhất
    Tổng thuật: Hội nghị tổng kết công tác năm 2025 và triển khai nhiệm vụ năm 2026 của Khối Khoa học, Chiến lược, Hợp tác quốc tế và Pháp chế - Bộ KH&CN