Sở hữu trí tuệ

Thúc đẩy thương mại hóa quyền sở hữu trí tuệ trở thành động lực cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam

PT 03/10/2025 09:07

Số lượng đơn sáng chế và giải pháp hữu ích của người Việt tăng trung bình 11,7% mỗi năm trong giai đoạn 2014-2024, phản ánh tiềm năng sáng tạo ngày càng lớn, nhưng hoạt động thương mại hóa vẫn còn hạn chế.

Mới đây, Ban Chính sách, chiến lược Trung ương và Bộ Khoa học và Công nghệ đã phối hợp tổ chức Hội thảo với chủ đề "Khung khổ pháp lý và chính sách về thương mại hóa quyền sở hữu trí tuệ - động lực tăng trưởng kinh tế mới ".

Hội thảo được tổ chức nhằm sớm hiện thực hóa các mục tiêu đã đề ra tại Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, đặc biệt là Kế hoạch số 01 về hành động chiến lược triển khai Nghị quyết 57, đồng thời huy động các ý kiến đóng góp nhằm triển khai nhiệm vụ “Xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ”.

Tạo khung khổ pháp lý thương mại hóa quyền sở hữu trí tuệ

Phát biểu khai mạc Hội thảo, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Chính sách, chiến lược Trung ương Phạm Đại Dương nhấn mạnh về tầm quan trọng của Nghị quyết số 57-NQ/TW và Kế hoạch số 01 về hành động chiến lược triển khai Nghị quyết 57-NQ/TW đã nhấn mạnh đến vấn đề quyền sở hữu trí tuệ (SHTT). Sáng kiến đột phá số 7 nêu trong Kế hoạch số 01 liên quan trực tiếp đến Hệ sinh thái SHTT và chuyển giao tri thức, công nghệ đã khẳng định, cần tạo lập môi trường thuận lợi và cơ chế hiệu quả cho việc bảo hộ, khai thác, thương mại hóa tài sản trí tuệ, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động chuyển giao công nghệ giữa các viện nghiên cứu, trường và doanh nghiệp.

439-202510031955171.jpg
Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Chính sách, Chiến lược Trung ương Phạm Đại Dương phát biểu khai mạc Hội thảo.

Phó Trưởng ban Chính sách, chiến lược Trung ương nhắc lại lời khẳng định của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm tại Lễ hưởng ứng Ngày hội Đổi mới sáng tạo quốc gia năm 2025: “Quốc gia nào đi trước một bước về khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo sẽ nắm lợi thế cạnh tranh và tiến nhanh, tiến xa. Trong khi đó, ai chậm đổi mới sẽ bị bỏ lại phía sau”. Trên tinh thần đó, Phó Trưởng Ban Phạm Đại Dương gợi mở một số vấn đề thảo luận trong Hội thảo.

Thứ nhất, làm thế nào để khung khổ pháp lý và chính sách của Việt Nam bắt kịp được xu thế thương mại hóa tài sản trí tuệ trên toàn cầu.

Thứ hai, cần tháo gỡ ra sao để các điểm nghẽn về ghi nhận, định giá, kế toán, tín dụng, thuế và ưu đãi tài chính đối với thương mại hóa tài sản trí tuệ

Thứ ba, mô hình nào về sàn giao dịch tài sản trí tuệ, sandbox tài chính, quỹ đầu tư chuyên biệt phù hợp với điều kiện của Việt Nam

Thứ tư, các chủ thế Nhà nước, nhà trường, doanh nghiệp, ngân hàng, quỹ đầu tư, tổ chức trung gian, nhà khoa học cần tham gia phối hợp như thế nào để thúc đẩy thương mại hóa tài sản trí tuệ trở thành động lực thực sự của nền kinh tế.

Khẩn trương điều chỉnh khung pháp lý

Tham dự và phát biểu tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Minh cho biết, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 124/NQ-CP ngày 8/5/2025, một trong các nhiệm vụ giao trực tiếp cho Bộ KH&CN chủ trì khẩn trương rà soát các quy định về SHTT, kịp thời nghiên cứu, đề xuất phương án sửa đổi, bổ sung quy định về SHTT.

Trên cơ sở đó, Bộ KH&CN đã phối hợp với các bộ, ngành triển khai Dự án xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT. Một trong các chính sách rất quan trọng đề xuất cho sửa đổi lần này là chính sách hỗ trợ tạo ra và khai thác thương mại các đối tượng quyền SHTT nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo.

439-202510031955172.jpg
Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Hoàng Minh phát biểu tại Hội thảo.

Theo Thứ trưởng Hoàng Minh, trong bối cảnh quốc tế, có ba xu thế lớn chi phối trực tiếp đến sự phát triển của hệ thống SHTT:

Thứ nhất là, các quốc gia phát triển đều dịch chuyển mạnh trọng tâm từ bảo hộ sang khai thác và thương mại hóa quyền SHTT và đóng góp đáng kể vào sự phát triển của các nền kinh tế lớn trên thế giới. Tại EU, trong giai đoạn 2017 - 2019, các ngành thâm dụng SHTT đã đóng góp 47% giá trị GDP, tại Mỹ chiếm 41% năm 2019 và Hàn Quốc là 43,1% năm 2015.

Thứ hai là, hệ thống tài chính - tín dụng dựa trên quyền SHTT ngày càng phổ biến. Trong đó, Trung Quốc là thị trường tài chính dựa trên tài sản trí tuệ lớn nhất thế giới, với hệ sinh thái tài chính SHTT toàn diện, giúp khoảng 37.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận vốn thông qua thế chấp bằng sáng chế và nhãn hiệu, với giá trị tài trợ đạt khoảng 854 tỷ nhân dân tệ năm 2023.

Thứ ba là, xu hướng đầu tư vào tài sản vô hình ngày càng vượt trội so với tài sản hữu hình. Theo Báo cáo điểm nhấn về đầu tư tài sản vô hình toàn cầu năm 2024 của Tổ chức SHTT thế giới (WIPO), giai đoạn 2008-2023, đầu tư vào tài sản vô hình tăng gần 4 lần so với đầu tư vào tài sản hữu hình. Riêng tại Mỹ, giá trị đầu tư này đã tương đương khoảng 15% GDP trong năm 2024.

Những số liệu này cho thấy, SHTT và tài sản vô hình đang trở thành thành phần trọng yếu trong khối tài sản của các nền kinh tế cạnh tranh, đòi hỏi chúng ta phải có hệ thống pháp luật cùng cơ chế thực thi tương xứng.

Tại Việt Nam, số lượng đơn sáng chế và giải pháp hữu ích của người Việt tăng trung bình 11,7% mỗi năm trong giai đoạn 2014-2024. Đây là tín hiệu tích cực, phản ánh tiềm năng sáng tạo ngày càng lớn của người Việt. Tuy nhiên, hoạt động thương mại hóa còn rất hạn chế vì nhiều lý do khác nhau, trong đó khung pháp lý hiện hành chưa đủ mạnh để thúc đẩy ứng dụng và khai thác thương mại.

Theo Thứ trưởng Hoàng Minh, quá trình rà soát cho thấy, nhiều quy định về xác lập, khai thác, định giá và chuyển giao tài sản trí tuệ chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn, còn phân tán và thiếu tính đồng bộ với các luật khác.

Dự thảo sửa đổi Luật SHTT lần này hướng đến khắc phục những bất cập trên bằng cách mở rộng quyền định đoạt của chủ sở hữu tài sản trí tuệ, thiết lập cơ chế minh bạch cho hoạt động góp vốn, chuyển nhượng, định giá và thế chấp, đồng thời khuyến khích hình thành và phát triển các tổ chức trung gian như sàn giao dịch, văn phòng chuyển giao công nghệ, tổ chức định giá tài sản trí tuệ.

Các điều khoản được đề xuất sửa đổi, bổ sung trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm quốc tế và phân tích các điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Các điều khoản được thiết kế không chỉ nhằm giải quyết bất cập trước mắt, mà còn hướng đến việc tạo dựng một khung pháp lý có khả năng thích ứng trong dài hạn, nhất là trong bối cảnh công nghệ thay đổi nhanh chóng.

Cục trưởng Cục SHTT Lưu Hoàng Long cũng nhấn mạnh xu hướng dịch chuyển tư duy quản trị SHTT trên thế giới: từ mục tiêu bảo hộ, phòng thủ sang coi SHTT là chiến lược quản trị, kinh doanh, tài chính của doanh nghiệp. Ở các doanh nghiệp S&P 500, tài sản vô hình hiện chiếm khoảng 90% giá trị thị trường; giai đoạn 2008 -2024, đầu tư vào tài sản vô hình tăng trung bình 4,1%/năm, nhanh gấp 3,7 lần tài sản hữu hình, trở thành động lực chủ đạo của xu hướng đầu tư toàn cầu.

439-202510031955173.jpg
Theo Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ Lưu Hoàng Long, thương mại hóa quyền SHTT là “mắt xích cuối cùng” để biến sáng chế thành giá trị kinh tế. Nếu khâu này bị bỏ ngỏ, kết quả nghiên cứu sẽ chỉ dừng lại trong phòng thí nghiệm.

Hàn Quốc là ví dụ tiêu biểu: từ năm 2015, nước này chuyển từ hỗ trợ "cung" (quản lý sáng chế) sang hỗ trợ "cầu" (đi thẳng vào nhu cầu công nghệ của doanh nghiệp), kết nối doanh nghiệp với chủ thể quyền hoặc đặt hàng nghiên cứu với trường/viện. Kết quả: số lượng sáng chế chuyển giao tăng gấp đôi trong 7 năm; giá trị thương mại hóa từ 0,3 tỷ USD (2017) lên 6 tỷ USD (2022), tăng 20 lần chỉ trong 5 năm.

Thương mại hóa quyền SHTT là “mắt xích cuối cùng” để biến sáng chế thành giá trị kinh tế. Nếu khâu này bị bỏ ngỏ, kết quả nghiên cứu sẽ chỉ dừng lại trong phòng thí nghiệm, Cục trưởng Cục SHTT cho biết.

Tại Hội thảo, các đại biểu đã thảo luận, phân tích xu hướng quốc tế và các yêu cầu hoàn thiện pháp luật SHTT Việt Nam để thúc đẩy thương mại hóa; đồng thời chia sẻ góc nhìn thực tiễn từ thị trường công nghệ về hoạt động thương mại hóa sáng chế. Các đại biểu cũng thảo luận sâu về các đề xuất, thử nghiệm chính sách tài chính dựa trên quyền SHTT, bao gồm: Cơ chế Chính phủ cung cấp bảo lãnh vay vốn thế chấp bằng quyền SHTT; quy định dư nợ tín dụng tối thiểu mà các ngân hàng thương mại cần cấp dựa trên quyền SHTT; xây dựng mạng lưới tổ chức, chuyên gia đủ điều kiện định giá quyền SHTT; hoàn thiện hệ thống dữ liệu liên thông phục vụ hoạt động cấp tín dụng dựa trên SHTT./.

Nổi bật
    Mới nhất
    Thúc đẩy thương mại hóa quyền sở hữu trí tuệ trở thành động lực cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam