Khai thác và quản trị dữ liệu trong lĩnh vực ngân hàng còn nhiều thách thức
Trong năm 2025, các ngân hàng tại Việt Nam đã triển khai phương thức xác thực sinh trắc học qua ứng dụng VNeID, tạo ra bước ngoặt lớn cho phát triển ngân hàng số ở Việt Nam, tuy nhiên vẫn còn một số những thách thức.

Dữ liệu là tài nguyên chiến lược
Trong ngành tài chính ngân hàng, dữ liệu có vị trí, vai trò hết sức quan trọng, là yếu tố sống còn cho các hoạt động thu thập, xử lý thông tin khách hàng và giao dịch để cung cấp dịch vụ, quản lý rủi ro và đưa ra quyết định kinh doanh chiến lược.
Dữ liệu khách hàng, giao dịch là tài sản quý giá giúp ngân hàng hiểu rõ hành vi khách hàng, phát triển sản phẩm cá nhân hóa, tuân thủ quy định và tối ưu hóa hiệu quả hoạt động.
Chia sẻ tại Hội thảo và Triển lãm cấp cao thường niên ngành Ngân hàng - Smart Banking 2025, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Cương, Giám đốc Trung tâm Dữ liệu quốc gia (Bộ Công an) nhấn mạnh, ngân hàng thông minh trước hết phải là ngân hàng “hiểu biết dữ liệu”. Trên thế giới, các ngân hàng hàng đầu hiện nay đều coi mình là “công ty dữ liệu”, đầu tư mạnh vào hệ thống kho dữ liệu, trí tuệ nhân tạo (AI) và nhân sự chuyên sâu. Phân tích dữ liệu đầy đủ, chính xác là tiền đề quan trọng để ra quyết định truy gốc tín dụng, quản trị rủi ro và thiết kế sản phẩm mới.
Ở Việt Nam, ngành ngân hàng đã xác định dữ liệu là “tài nguyên chiến lược". Nhiều ngân hàng tiên phong ứng dụng dữ liệu vào dịch vụ của mình thể hiện qua việc ứng dụng căn cước công dân (CCCD) gắn chip để xác thực khách hàng, làm sạch hồ sơ, hay tận dụng dữ liệu lớn từ viễn thông, mạng xã hội để chấm điểm tín dụng, phòng chống gian lận, giảm thiểu rủi ro.
Việc tích hợp định danh điện tử quốc gia (VNeID) vào hệ thống dịch vụ ngân hàng không chỉ là cải tiến kỹ thuật, mà còn là sự thay đổi nền tảng trong cách người dân tiếp cận dịch vụ tài chính - ngân hàng, hướng tới hệ sinh thái số an toàn, liền mạch và toàn diện. Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, đến ngày 15/8/2025, toàn ngành Ngân hàng đã khớp dữ liệu sinh trắc học cho hơn 123,9 triệu hồ sơ cá nhân và 1,3 triệu hồ sơ tổ chức (đạt 100% số tài khoản thanh toán cá nhân và tổ chức có giao dịch số).
Có thể nói, việc triển khai VNeID đã tạo ra bước ngoặt lớn cho phát triển ngân hàng số ở Việt Nam, nhưng để đạt được điều này đòi hỏi hệ thống của ngân hàng và Bộ Công an phải tích hợp chặt chẽ, đây cũng một quá trình không hề đơn giản.
Khai thác và quản trị dữ liệu trong lĩnh vực ngân hàng còn nhiều thách thức
Theo Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Cương, ngân hàng là một trong những ngành đi tiên phong trong lĩnh vực chuyển đổi số, tuy nhiên chất lượng dữ liệu thu thập được của ngân hàng vẫn còn là một trong những thách thức.
“Dữ liệu ngành ngân hàng thu thập được rất nhiều nhưng chất lượng theo phương châm phương châm “Đúng - Đủ - Sạch - Sống” vẫn còn là thách thức. Dữ liệu ngân hàng chưa có sự liên thông đầy đủ với cơ quan thuế, hải quan... do đó chưa tạo được bức tranh toàn diện để có được dữ liệu phục vụ đa mục tiêu”, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Cương đánh giá.

Theo Giám đốc Trung tâm Dữ liệu quốc gia, Bộ Công an, kiêm Phó Chủ tịch Hiệp hội Dữ liệu quốc gia, việc khai thác và quản trị dữ liệu trong lĩnh vực ngân hàng đang tồn tại một số khó khăn, thách thức.
Thứ nhất, về chất lượng dữ liệu. Dữ liệu thu thập từ nhiều nguồn khác nhau nên thường xảy ra tình trạng trùng lắp, sai lệch hoặc không cập nhật kịp thời. Việc làm sạch, chuẩn hóa và đồng bộ dữ liệu giữa các ngân hàng và giữa ngân hàng với các cơ sở dữ liệu quốc gia chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục.
Thứ hai, về kết nối, chia sẻ dữ liệu. Mặc dù đã từng bước kết nối như với cơ sở dữ liệu dân cư, nhưng nhìn chung các cấu trúc dữ liệu ngành tài chính - ngân hàng và các ngành khác chưa thực sự liên thông. Việc thúc đẩy các tiêu chuẩn mở về dữ liệu, giao thức kết nối (API) giữa ngân hàng với các lĩnh vực như thuế, hải quan, đất đai, doanh nghiệp... để hình thành bức tranh dữ liệu toàn diện về khách hàng, phục vụ đa mục tiêu (phân tích tín dụng, phòng chống rửa tiền, gian lận...) chưa bảo đảm mục tiêu, yêu cầu.
Thứ ba, về khai thác giá trị dữ liệu. Nhiều ngân hàng hiện nay mới chỉ sử dụng dữ liệu cho các mục đích nội bộ; việc làm giàu dữ liệu và chia sẻ giá trị dữ liệu ra bên ngoài thông qua các mô hình như ngân hàng mở, thị trường dữ liệu tài chính chưa được tiến hành thường xuyên, gây khó khăn cho việc tạo ra các dịch vụ mới, đồng thời hỗ trợ các ngân hàng tiếp cận nguồn dữ liệu ngoài ngành để hiểu khách hàng hơn.
Thứ tư, về bảo mật và quyền riêng tư. Đây là thách thức lớn nhất khi xử lý dữ liệu quy mô lớn, đặt ra yêu cầu tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc về bảo vệ dữ liệu cá nhân, văn hóa bảo mật dữ liệu phải được quán triệt ở mọi cấp độ trong ngành ngân hàng. Đồng thời, phải đầu tư các giải pháp an ninh mạng tiên tiến để chống lại nguy cơ rò rỉ dữ liệu, tấn công khai thác dữ liệu…
Theo Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Cương, trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết nhằm từng bước củng cố cơ sở chính trị pháp lý nền tảng cho dữ liệu, thúc đẩy chuyển đổi số, kinh tế số và xã hội số. Trong đó có Nghị quyết số 57/NQ-TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Một trong những quan điểm chỉ đạo tại Nghị quyết là làm giàu, khai thác tối đa tiềm năng của dữ liệu, đưa dữ liệu thành tư liệu sản xuất chính, thúc đẩy phát triển nhanh cơ sở dữ liệu lớn, công nghiệp dữ liệu, kinh tế dữ liệu, nhằm nâng cao hiệu quả khai thác dữ liệu, tạo ra cú kích chia sẻ dữ liệu trên quy mô toàn quốc.
Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Cương đưa ra 4 cam kết đồng hành hỗ trợ ngành ngân hàng trong quá trình chuyển đổi số, bao gồm: nghiên cứu, hoàn thiện hàng lang pháp lý về dữ liệu, đáp ứng yêu cầu vừa liên thông, khai thác dữ liệu giữa các ngành vừa đảm bảo an toàn thông tin cho các tổ chức, cá nhân; xây dựng các tiêu chuẩn nền tảng dữ liệu mở quốc gia; thúc đẩy ứng dụng các công nghệ dữ liệu cốt lõi; phổ cập tri thức và kỹ năng về dữ liệu để nâng cao nhận thức cho người dân và các tổ chức./.