Truyền thông

Học nghề - Đòn bẩy giúp hộ nghèo vươn lên thoát nghèo bền vững

Hạnh Tâm 11/12/2025 19:44

Đến nay, nhiều địa phương đã ghi nhận những kết quả tích cực với tỷ lệ người sau học nghề có việc làm đạt mức cao. Điều này cho thấy tính hiệu quả của mô hình "trao cần câu thay vì trao con cá".

Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững (CTMTQG GNBV) giai đoạn 2021 - 2025 đã đi vào chiều sâu, tập trung giải quyết những thiếu hụt về dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là thiếu hụt về việc làm và khả năng tiếp cận nghề nghiệp. Đào tạo nghề không chỉ là một chính sách an sinh, mà đã trở thành chiến lược kiến tạo năng lực, giúp người nghèo tự tin tham gia thị trường lao động và tạo ra thu nhập ổn định thay vì chỉ trông chờ vào sự hỗ trợ.

z7249837229351_d32c93e774589f20b79fcf3d83863868.jpg

Đến nay, nhiều địa phương đã ghi nhận những kết quả tích cực với tỷ lệ người sau học nghề có việc làm đạt mức cao. Điều này cho thấy tính hiệu quả của mô hình "trao cần câu thay vì trao con cá".

Những kết quả nổi bật của dự án phát triển giáo dục nghề nghiệp

Các báo cáo sơ kết giữa kỳ của nhiều tỉnh thành cho thấy, mục tiêu kết nối việc làm sau đào tạo đang được chú trọng và đạt hiệu quả cao. Tỷ lệ người lao động thuộc hộ nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo sau khi tham gia các khóa đào tạo nghề ngắn hạn (dưới 3 tháng) tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm thường dao động ở mức 70% - 85%.

Các nghề được đào tạo thường gắn liền với lợi thế địa phương và nhu cầu thực tiễn của thị trường như: kỹ thuật nuôi trồng thủy sản, trồng rau hữu cơ theo tiêu chuẩn VietGAP; may công nghiệp, nấu ăn, làm bánh, nghiệp vụ du lịch tại homestay (đặc biệt ở các tỉnh miền núi phía Bắc); đan lát, thêu dệt thổ cẩm, chế biến nông sản như chè, cà phê, dược liệu…

Sự thành công được ghi nhận nhờ sự thay đổi trong cách tiếp cận với việc đào tạo gắn với nhu cầu thực tế. Các cơ sở đào tạo nghề phối hợp chặt chẽ với những doanh nghiệp, HTX và các mô hình kinh tế địa phương để thiết kế chương trình học. Điều này đảm bảo tay nghề của học viên đáp ứng được yêu cầu của nơi làm việc ngay sau khi tốt nghiệp.

Đặc biệt, các chương trình đào tạo ưu tiên vùng dân tộc thiểu số và phụ nữ được tổ chức học ngay tại xã, thôn, bản giúp họ vừa học nghề vừa đảm bảo công việc gia đình mà không phải di chuyển xa. Sự hỗ trợ đặc biệt này giúp tăng cường vốn xã hội, khơi dậy ý chí tự lực vươn lên.

Những điểm sáng vươn lên thoát nghèo

Nhiều địa phương đã phát triển những mô hình cụ thể để minh chứng cho hiệu quả của việc học nghề và lập nghiệp.

Một mô hình điển hình là việc lồng ghép các hoạt động đào tạo nghề với chính sách tín dụng ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách Xã hội. Sau khi hoàn thành khóa học, các hộ nghèo, cận nghèo sẽ được hỗ trợ vay vốn ưu đãi để mua sắm công cụ, vật tư hoặc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ. Sự kết hợp này giải quyết cả hai vấn đề cốt lõi là thiếu kiến thức và thiếu vốn, tạo điều kiện thuận lợi nhất để họ tự tạo việc làm và tăng thu nhập ổn định.

Nhiều hộ nghèo đã thành công khi học các nghề truyền thống gắn với du lịch, tạo ra giá trị gia tăng cao. Ví dụ, tại các tỉnh miền núi, việc đào tạo kỹ năng thêu, dệt thổ cẩm theo yêu cầu thị trường hiện đại hoặc các lớp học về làm dịch vụ lưu trú (homestay) đã giúp nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số kiếm được thu nhập cao hơn 2-3 lần so với chỉ làm nông nghiệp đơn thuần. Sản phẩm của họ vừa có tính kinh tế, vừa giữ gìn được bản sắc văn hóa. Hợp tác xã đóng vai trò là cầu nối, tiếp nhận lao động đã qua đào tạo nghề, bao tiêu sản phẩm đầu ra, giảm rủi ro thị trường cho các hộ nghèo.

Thách thức hiện tại và giải pháp

Mặc dù có nhiều thành tựu, nhưng việc triển khai đào tạo nghề cho người nghèo vẫn gặp phải một số thách thức cần được tháo gỡ cấp bách.

Thách thức đầu tiên là chất lượng đào tạo và sự hấp dẫn của nghề học. Nhiều cơ sở đào tạo nghề chưa có đủ thiết bị hiện đại, hoặc đội ngũ giáo viên có kinh nghiệm thực tiễn. Nội dung đào tạo đôi khi vẫn mang tính lý thuyết, chưa bám sát được công nghệ mới nhất của thị trường.

Do đó, cần có cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ chất lượng đầu vào của các trung tâm đào tạo, ưu tiên đào tạo theo hình thức "đặt hàng" của doanh nghiệp, đảm bảo học viên được thực hành trong môi trường làm việc thực tế.

Thứ hai là thiếu cơ chế hỗ trợ sau đào tạo. Sau khi tốt nghiệp, một số hộ nghèo, cận nghèo vẫn gặp khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ (đối với nghề tự tạo việc làm) hoặc thiếu vốn để mở rộng sản xuất. Bên cạnh đó, các địa phương cũng chưa có cơ chế hỗ trợ kịp thời cho nhóm hộ mới thoát nghèo dẫn đến nguy cơ tái nghèo cao.

Do vậy việc tăng cường vốn xoay vòng, thiết lập các quỹ hỗ trợ khởi nghiệp cho người nghèo sau học nghề là vô cùng cần thiết. Ngoài ra, cần thúc đẩy mạnh mẽ mối liên kết giữa nhà nước, nhà trường (cơ sở dạy nghề), nhà khoa học (chuyển giao công nghệ) và nhà doanh nghiệp (bao tiêu, tạo việc làm).

Đặc biệt hơn nữa là vấn đề người nghèo không muốn học nghề. Một bộ phận người nghèo có tư tưởng "ngại thay đổi" hoặc "không muốn vươn lên", chỉ hài lòng với các khoản hỗ trợ ngắn hạn. Ngoài ra, chi phí cơ hội của việc đi học nghề khiến thời gian bị cắt giảm khỏi sản xuất nông nghiệp cũng là một rào cản.

Để giải quyết vấn đề này cần tăng cường công tác tuyên truyền, thay đổi nhận thức, khơi dậy ý chí thoát nghèo. Các chính sách hỗ trợ cần được thiết kế theo hướng "hỗ trợ có điều kiện" như chỉ hỗ trợ vốn sau khi đã hoàn thành đào tạo nghề và có kế hoạch kinh doanh khả thi.

Kết luận

Đào tạo nghề và giải quyết việc làm là chiếc "chìa khóa vàng" giúp hàng ngàn hộ nghèo chuyển hóa từ đối tượng thụ hưởng sang chủ thể phát triển. Sau một thời gian triển khai, cho thấy chương trình đang đi đúng hướng, đặc biệt trong việc kết nối đầu ra.

Để đảm bảo hiệu quả bền vững, trong thời gian tới, các địa phương cần tập trung nâng cao chất lượng đào tạo, đơn giản hóa thủ tục hành chính để vốn ưu đãi đến tay người nghèo kịp thời, và đặc biệt là xây dựng một hệ thống hỗ trợ sau đào tạo vững chắc, giúp các hộ mới vươn lên giữ vững thành quả giảm nghèo của mình./.

Nổi bật
    Mới nhất
    Học nghề - Đòn bẩy giúp hộ nghèo vươn lên thoát nghèo bền vững