Chuyển đổi số

Chuyển đổi số muốn thành công phải đặt con người và niềm tin số ở vị trí trung tâm

VVH 29/11/2025 22:42

Xã hội số không chỉ được hình thành từ công nghệ, mà từ sự giao thoa giữa đổi mới sáng tạo, vốn xã hội, năng lực con người, dữ liệu, vàthể chế hiện đại. Những nghịch lý số như: Công nghệ đi nhanh hơn năng lực tiếp nhận, dữ liệu nhiều nhưng niềm tin thấp, số hóa nhanh nhưng pháp lý chậm… nhắc chúng ta rằng, chuyển đổi số muốn thành công phải đặt con người và niềm tin số ở vị trí trung tâm.

Nhằm trao đổi, thảo luận và chia sẻ các kết quả nghiên cứu, kinh nghiệm quốc tế trong hoạch định, thực thi chính sách phát triển và quản lý xã hội số và khuyến nghị chính sách cho Việt Nam, mới đây,Đại học Kinh tế Quốc dân phối hợp với Trường Đại học Công đoàn; Viện Đổi mới sáng tạo và Chuyển đổi số; Trường Đại học Tài chính - Marketing; Viện Chính sách, Đổi mới và Khoa học Liên ngành; Viện nghiên cứu nhân khẩu học trực thuộc Trung tâm nghiên cứu Xã hội học LB Nga; Viện Hàn lâm Khoa học LB Nga; Trường Đại học Q University Kazakhstan tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế: “Chính sách phát triển và quản lý xã hội số: Lý luận và thực tiễn ở một số quốc gia”.

Đây cũng là Hội thảo khoa học thuộc đề tài nghiên cứu trọng điểm cấp Nhà nước KX.06.05/21-30 “Chính sách phát triển và quản lý xã hội số: Kinh nghiệm quốc tế và hàm ý cho Việt Nam” do Đại học Kinh tế Quốc dân chủ trì, PGS.TS. Đỗ Hương Lan làm chủ nhiệm.

cds-muon-thanh-cong-1.jpg
Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại Hội thảo.

Xã hội số không chỉ là vấn đề công nghệ, mà còn là vấn đề xã hội

Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn cầu đang làm thay đổi căn bản mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, việc hình thành và phát triển xã hội số (digital society) đã trở thành xu thế tất yếu, gắn liền với chiến lược phát triển bền vững của các quốc gia.

Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số không chỉ tạo ra cơ hội to lớn cho tăng trưởng kinh tế, quản trị công, đổi mới sáng tạo, mà còn đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn mới về chính sách quản lý, an sinh, công bằng và phát triển con người trong không gian số.

Phát biểu khai mạc Hội thảo, GS.TS. Trần Thọ Đạt, Chủ tịch Hội đồng khoa học Đại học Kinh tế Quốc dân khẳng định: Trong bối cảnh chuyển đổi số toàn diện, phát triển xã hội số đã trở thành xu thế tất yếu, gắn chặt với đổi mới toàn diện kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực quản trị quốc gia và thúc đẩy phát triển bền vững. Việt Nam hiện đang triển khai mạnh mẽ Chiến lược chuyển đổi số quốc gia, với mục tiêu xây dựng chính phủ số - kinh tế số - xã hội số như những trụ cột quan trọng của tiến trình hiện đại hóa đất nước.

Tuy nhiên, xã hội số không chỉ là vấn đề công nghệ, mà còn là vấn đề xã hội, thể chế, quản trị và an sinh, đòi hỏi cách tiếp cận đa ngành, dựa trên bằng chứng, có tham chiếu kinh nghiệm quốc tế. Việc hiểu đúng bản chất xã hội số và tìm kiếm mô hình quản lý phù hợp chính là điều kiện để Việt Nam hiện thực hóa các mục tiêu phát triển trong giai đoạn mới.

Đồng tình với chia sẻ của GS.TS. Trần Thọ Đạt, PGS.TS. Nguyễn Hiệp Thương, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Công đoàn cho rằng: Xã hội số không chỉ là hệ quả tất yếu của công nghệ số hóa mà còn là nền tảng tái cấu trúc kinh tế - xã hội, nơi kinh tế số, chính phủ số và công dân số giao thoa biện chứng, thúc đẩy tăng trưởng bền vững song hành với đổi mới sáng tạo.

Tuy nhiên, sự bùng nổ dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo và kết nối vạn vật đã khơi dậy những thách thức mang tính hệ thống như: An ninh mạng, bảo vệ quyền riêng tư, công bằng xã hội, an sinh con người trong không gian số, đòi hỏi các khung lý thuyết mới và chính sách điều phối liên ngành tinh tế.

Tại Phiên 1, các báo cáo xoay quanh nền tảng lý thuyết, mô hình và các nghiên cứu thực nghiệm về xã hội số.

Phiên 1 được mở đầu bằng nghiên cứu về lan tỏa đổi mới sáng tạo trong thời đại số của GS. L.S. Spankulova đến từ Đại học Quốc gia Al-Farabi Kazakhstan.

Nghiên cứu nhấn mạnh rằng, trong bối cảnh xã hội số, đổi mới sáng tạo và tri thức không dừng lại ở biên giới quốc gia, mà tạo nên dòng chảy lan tỏa hai chiều, thúc đẩy tăng trưởng vùng và củng cố năng lực cạnh tranh của cả hai nền kinh tế.

Từ đổi mới sáng tạo quốc gia, Hội thảo chuyển sang một lát cắt về vốn xã hội và tính đổi mới cá nhân trong sử dụng dịch vụ công trực tuyến của PGS.TS. Đỗ Hương Lan và cộng sự.

Kết quả khảo sát hơn 700 người của PGS.TS. Đỗ Hương Lan cho thấy một nghịch lý thú vị: Đô thị có năng lực số cao nhưng lan tỏa trải nghiệm lại thấp; trong khi nông thôn truyền thống (nhờ sự gắn kết cộng đồng) lại tạo hiệu ứng chia sẻ mạnh mẽ hơn. Nông thôn mới trở thành “điểm sáng” khi dung hòa được cả hai yếu tố: Đổi mới và niềm tin xã hội.

Những vấn đề về quản trị công trong xã hội số được khai thác sâu hơn qua báo cáo nghiên cứu của NCS Lý Vương Thảo (Trường Đại học Ngoại thương) về giải quyết tranh chấp trực tuyến (ODR) trong phá sản.

So sánh giữa mô hình linh hoạt của Mỹ và mô hình kỷ luật của Đức, báo cáo cho thấy, ODR không chỉ là chuyển dịch sang nền tảng số, mà là sự chuyển đổi tư duy về công lý - nhanh hơn, minh bạch hơn và tiếp cận hơn.

Báo cáo của PGS.TS. Hoàng Văn Hoan và cộng sự mở ra một khung lý thuyết mới: Xã hội số như một hàm sản xuất gồm dữ liệu, AI, vốn số, nguồn lực con người và môi trường thể chế. Ba nghịch lý của Việt Nam được chỉ ra rõ nét: Công nghệ chạy trước - con người theo sau; dữ liệu nhiều - niềm tin thấp; số hóa nhanh - pháp lý chậm.

Từ đó, nhóm tác giả gợi mở thông điệp mạnh mẽ: Muốn xây dựng xã hội số bền vững, trước hết phải đầu tư vào con người và niềm tin số.

Quản trị di cư mới dựa trên số hóa

Phiên thứ hai mở ra bằng nghiên cứu của GS.TS. Sergei Riazantsev (Đại học Mahidol Thái Lan) và cộng sự bàn về xu hướng đang làm thay đổi cấu trúc lao động toàn cầu: Du mục số (digital nomads).

Với đóng góp ước tính 787 tỷ USD mỗi năm, nhóm lao động di động này không chỉ thúc đẩy du lịch, sáng tạo, nguồn thu ngân sách, mà còn mở ra câu chuyện mới về cạnh tranh chính sách giữa các quốc gia: Ai sẽ thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao này?

TS. Yessetova Saltanat (Đại học Q, Kazakhstan) và cộng sự đưa ra khái niệm di cư số (digital migration) tại Kazakhstan - nơi các thủ tục di trú được số hóa toàn diện, từ hồ sơ đến giám sát, tạo ra một mô hình di cư linh hoạt hơn, minh bạch hơn và thân thiện hơn với người lao động.

Kazakhstan không chỉ cải thiện quy trình hành chính mà còn hướng đến phát triển một hệ sinh thái “quản lý di trú thông minh”, đặt nền móng cho thị trường lao động số xuyên biên giới.

Bài trình bày của PGS.TS. Marina Khramova (LB Nga) cho thấy một góc nhìn khác: Di cư như một trụ cột nhân khẩu học, được quản lý bằng công nghệ sinh trắc học và dữ liệu thời gian thực. Ứng dụng “Amina” bắt buộc từ năm 2025 - đánh dấu bước chuyển sang mô hình quản trị di cư mới dựa trên số hóa, tự động hóa, kiểm soát chặt chẽ, đồng thời đặt ra thách thức về quyền riêng tư và đạo đức dữ liệu.

Kết thúc phiên 2, nhóm nghiên cứu của PGS.TS. Phan Thế Công (Trường Đại học Thương mại) mang đến một bức tranh bao quát về quản lý xã hội số, rút ra bài học từ Estonia, Singapore và Hàn Quốc. Các quốc gia thành công đều có điểm chung: Tầm nhìn rõ ràng, hạ tầng mạnh, con người được trang bị kỹ năng số và một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo năng động. Đây cũng là hướng mà Việt Nam cần tiếp tục theo đuổi trong lộ trình đến năm 2035.

Gợi suy đối với Việt Nam

Phát biểu tổng kết Hội thảo, PGS.TS. Đỗ Hương Lan cho rằng, có nhiều vấn đề được đặt ra tiếp tục mở ra nhiều suy ngẫm và hướng nghiên cứu mới cho Việt Nam.

Các báo cáo của Phiên 1 cho thấy, xã hội số không chỉ được hình thành từ công nghệ, mà từ sự giao thoa giữa đổi mới sáng tạo, vốn xã hội, năng lực con người, dữ liệu, và thể chế hiện đại. Những nghịch lý số được chỉ ra: Công nghệ đi nhanh hơn năng lực tiếp nhận, dữ liệu nhiều nhưng niềm tin thấp, số hóa nhanh nhưng pháp lý chậm nhắc chúng ta rằng: Chuyển đổi số muốn thành công phải đặt con người và niềm tin số ở vị trí trung tâm.

Các mô hình lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm từ dịch vụ công trực tuyến, lan tỏa đổi mới sáng tạo đến giải quyết tranh chấp trực tuyến đã cho thấy, xã hội số là một hệ sinh thái phức hợp, đòi hỏi cách tiếp cận dựa trên bằng chứng, tầm nhìn dài hạn và năng lực thể chế thích ứng.

Phiên 2 cho thấy sự trỗi dậy của du mục số, sự hình thành của di cư số và sự số hóa mạnh mẽ trong quản trị di trú tại nhiều quốc gia. Những xu hướng này cho thấy dữ liệu và công nghệ trở thành yếu tố dẫn dắt mới trong quản trị di cư, thị trường lao động và thu hút nhân lực toàn cầu.

Đây cũng là lời nhắc rằng Việt Nam cần chuẩn bị sớm: Từ chính sách visa linh hoạt, hạ tầng dữ liệu mạnh, đến mô hình quản lý di trú thông minh và cơ chế bảo vệ dữ liệu cá nhân, tất cả đều sẽ quyết định khả năng cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên số. Từ sự giao thoa của hai phiên, có thể rút ra một thông điệp xuyên suốt: Công nghệ là động lực, nhưng con người, niềm tin, năng lực số và thể chế mới là nền tảng của một xã hội số bền vững. Xã hội số không chỉ là câu chuyện của chuyển đổi kỹ thuật, mà là sự thay đổi cách con người sống, kết nối, làm việc, sáng tạo và di chuyển.

Những kinh nghiệm và phân tích tại Hội thảo đã chỉ ra rằng, Việt Nam cần lựa chọn chiến lược xã hội số phù hợp với bối cảnh của mình: Đầu tư cho vốn con người số, củng cố niềm tin vào dữ liệu, hoàn thiện pháp lý, nâng năng lực địa phương và phát triển hạ tầng số bao trùm, đồng thời chủ động hội nhập với các xu hướng quốc tế mới.

cds-muon-thanh-cong-2.jpg
PGS.TS. Đỗ Hương Lan tổng kết Hội thảo.

Những kết quả và gợi mở từ Hội thảo không chỉ có giá trị nghiên cứu, mà còn là nền tảng quan trọng để các nhà hoạch định chính sách, cơ quan quản lý và các trường đại học tiếp tục cùng nhau xây dựng một xã hội số nhân văn - tin cậy - bao trùm - bền vững, hướng tới tương lai phát triển thịnh vượng trong kỷ nguyên chuyển đổi số toàn diện./.

Nổi bật
    Mới nhất
    Chuyển đổi số muốn thành công phải đặt con người và niềm tin số ở vị trí trung tâm