Chuyển đổi số

Chiến lược để đưa kinh tế số Việt Nam cất cánh

AT 26/11/2025 19:45

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, kinh tế số đã trở thành sức mạnh thay đổi toàn diện cách làm việc, giao tiếp và tiêu dùng. Đây không chỉ là một xu hướng, mà là động lực phát triển chủ đạo mới để Việt Nam phát triển nhanh, bền vững và bao trùm. Nhận thức sâu sắc điều này, Đảng và Nhà nước ta đã xác định phát triển kinh tế số là một nhiệm vụ có mức ưu tiên cao trong các chiến lược phát triển quốc gia.

Với tư duy chủ động và tầm nhìn chiến lược, một hệ thống các đường lối, chủ trương, chính sách toàn diện, đồng bộ và mang tính đột phá đã được ban hành. Các chính sách không chỉ định hình không gian phát triển mới mà còn thể hiện khát vọng lớn và quyết tâm cao nhằm nắm bắt "thời cơ" để bứt phá vươn lên, thay đổi thứ hạng quốc gia.

Tầm nhìn chiến lược

Đường lối của Đảng và Nhà nước ta bắt nguồn từ tầm nhìn chiến lược, được cụ thể hóa trong các Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị về chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và Quyết định số 411/QĐ-TTg phê duyệt "Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030".

Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước xác định rõ: Thể chế, hạ tầng, nhân lực, người dân và doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng cho phát triển kinh tế số và xã hội số. Từ đó, các chính sách được xây dựng dựa trên những trụ cột đột phá:

Thể chế phải kiến tạo phát triển: Đây được coi là nhiệm vụ xuyên suốt, có mức độ ưu tiên cao nhất. Chính sách tập trung vào việc hoàn thiện môi trường pháp lý, tạo hành lang rõ ràng cho các mô hình kinh doanh mới.

Điểm đột phá là ban hành chính sách thúc đẩy các hoạt động trực tuyến diễn ra nhanh hơn, dễ dàng hơn và an toàn hơn. Điều này bao gồm việc sửa đổi Luật Giao dịch điện tử và xây dựng khung pháp lý thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) cho các dịch vụ số mới.

Hạ tầng số phải đi trước một bước: Nhà nước chủ trương phát triển hạ tầng với tốc độ nhanh, theo hướng Việt Nam làm chủ công nghệ lõi. Điểm đột phá là nhanh chóng phổ cập điện thoại thông minh tới mỗi người dân, phổ cập Internet cáp quang băng rộng tốc độ cao tới mỗi hộ gia đình và phổ cập dịch vụ điện toán đám mây tới mỗi doanh nghiệp.

Các chính sách quyết liệt như đấu giá thành công tần số 5G và ngừng dịch vụ 2G là minh chứng cho quyết tâm này.

Bảo vệ chủ quyền số quốc gia song hành cùng hội nhập: Chính sách của Việt Nam nhấn mạnh việc phát triển kinh tế số phải gắn liền với xây dựng và củng cố chủ quyền số quốc gia. Chủ động hội nhập quốc tế, mở cửa thị trường nhưng phải cân đối với phát triển sản xuất trong nước và thu hút đầu tư có chọn lọc, phù hợp với chiến lược quốc gia.

Tầm nhìn chung của các đường lối này là phát triển kinh tế số để người dân giàu có hơn, phát triển xã hội số để người dân hạnh phúc hơn, góp phần đưa Việt Nam trở thành quốc gia số an toàn, nhân văn và rộng khắp.

Những mục tiêu cụ thể hóa

Để tầm nhìn trở thành hiện thực, Chính phủ đã đặt ra những mục tiêu cụ thể tại Quyết định số 749/QĐ-TTg và Quyết định số 411/QĐ-TTg. Phát triển kinh tế số để người dân giàu có hơn, phát triển xã hội số để người dân hạnh phúc hơn, góp phần đưa Việt Nam trở thành quốc gia số an toàn, nhân văn và rộng khắp.

Những mục tiêu cụ thể hóa

Để tầm nhìn trở thành hiện thực, Chính phủ đã đặt ra những mục tiêu vô cùng cụ thể và đầy tham vọng trong Quyết định số 749/QĐ-TTg và Quyết định số 411/QĐ-TTg.

Tạo cơ chế, chính sách để thúc đẩy thương mại điện tử- Ảnh 1.
Thương mại điện tử góp phần phát triển kinh tế số.

Đến năm 2025: Tỷ trọng kinh tế số đạt 20% GDP; Tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%; Tỷ trọng thương mại điện tử trong tổng mức bán lẻ đạt trên 10%; Tỷ lệ doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng nền tảng số đạt trên 50%; Tỷ lệ hộ gia đình được phủ mạng Internet băng rộng cáp quang đạt 80%; Tỷ lệ dân số trưởng thành có điện thoại thông minh đạt 80%.

Định hướng đến năm 2030: Tỷ trọng kinh tế số đạt 30% GDP; Tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 20%; Tỷ trọng thương mại điện tử trong tổng mức bán lẻ đạt trên 20%; Tỷ lệ hộ gia đình được phủ mạng Internet băng rộng cáp quang đạt 100%.

Những con số này không chỉ là chỉ tiêu, mà còn là mệnh lệnh phát triển, đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Thực tế cho thấy, chúng ta đang đi đúng hướng khi nhiều chỉ tiêu đã sớm đạt và vượt. Tính đến hết năm 2024, tỉ lệ hộ gia đình có internet cáp quang đã đạt 82,4%, vượt mục tiêu của năm 2025.

Hệ thống chính sách đồng bộ phát triển "nền móng"

Để đạt được các mục tiêu trên, "Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số" (Quyết định 411) đã đề ra 9 nhóm chính sách nền móng mang tính đột phá.

Về thể chế: Hoàn thiện môi trường pháp lý, công nhận đầy đủ tính pháp lý của giao dịch điện tử, và đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền.

Về hạ tầng: Ngoài hạ tầng số, chiến lược còn tập trung số hóa và thông minh hóa các hạ tầng thiết yếu khác như giao thông, năng lượng, y tế, giáo dục.

Về nền tảng số: Phát triển các nền tảng số được coi là "hạ tầng mềm" của không gian số. Chính sách đột phá là phát triển thật nhanh các nền tảng số quốc gia phục vụ các nhu cầu đặc thù của người Việt Nam.

Về dữ liệu số: Coi dữ liệu là "huyết mạch", là nguyên liệu không tiêu hao, càng chia sẻ càng phát huy giá trị. Chính sách tập trung giải quyết điểm nghẽn về "cát cứ dữ liệu", xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia làm dữ liệu gốc và tạo thị trường dữ liệu an toàn.

Về an toàn thông tin mạng: Xây dựng môi trường số an toàn, lành mạnh để tạo niềm tin. Chính sách đột phá là phổ cập dịch vụ an toàn thông tin mạng ở mức cơ bản cho người dân và doanh nghiệp. Đặc biệt là xây dựng Hệ thống định danh và xác thực điện tử (VNeID) trên nền tảng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.

Về nhân lực số: Chính sách đột phá là thí điểm mô hình "Đại học số" cho phép học và thi trực tuyến. Đồng thời, triển khai dạy kỹ năng số và STEM/STEAM ngay từ cấp giáo dục phổ thông.

Về kỹ năng số, công dân số: Phổ cập kỹ năng số toàn diện. Chính sách đột phá là phổ biến kỹ năng số bằng chính việc sử dụng các nền tảng số quốc gia.

Về doanh nghiệp số: Đẩy mạnh, đẩy nhanh chuyển đổi số doanh nghiệp. Chính phủ ban hành các chương trình hỗ trợ riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời yêu cầu các doanh nghiệp nhà nước lớn phải đi tiên phong, dẫn dắt.

Về thanh toán số: Phổ cập tài chính toàn diện, thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt. Một chính sách quan trọng là thúc đẩy dịch vụ Mobile-Money, tập trung ưu tiên ở các vùng có tỷ lệ phổ cập ngân hàng thấp.

Tổ chức thực thi quyết liệt: từ lời nói đến hành động

Một trong những điểm ưu việt trong đường lối của Việt Nam là sự quyết liệt trong tổ chức thực thi, đảm bảo chính sách đi vào cuộc sống.

Thứ nhất, bộ máy chỉ đạo được tổ chức thống nhất, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương. Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số do Thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch, cùng Ban chỉ đạo chuyển đổi số của các bộ, ngành, địa phương tạo thành một hệ thống chỉ huy thông suốt, thường xuyên đôn đốc, giải quyết các "điểm nghẽn".

Thứ hai, Việt Nam đã xây dựng một mô hình độc đáo, mang tính đặc thù: Tổ công nghệ số cộng đồng. Các tổ này được thành lập đến từng khối phố, thôn, bản với thành viên là những người năng nổ, nhiệt tình tại chỗ. Đây chính là "cánh tay nối dài" đưa chủ trương, chính sách về kỹ năng số, nền tảng số đến từng người dân, hỗ trợ họ sử dụng dịch vụ, đảm bảo sự phát triển bao trùm, không để ai bị bỏ lại phía sau.

to-cnscd-dong-thap.jpg
Tổ công nghệ số cộng đồng - "cánh tay nối dài" đưa chủ trương, chính sách về kỹ năng số, nền tảng số đến từng người dân.

Thứ ba, nguồn lực được bảo đảm. Chính sách nêu rõ kinh phí thực hiện đến từ ngân sách nhà nước, đầu tư của doanh nghiệp và các nguồn hợp pháp khác. Nhà nước ưu tiên ngân sách cho các nhiệm vụ, dự án do cơ quan nhà nước chủ trì và khuyến khích mạnh mẽ khu vực tư nhân tham gia.

Những kết quả đạt được vô cùng ấn tượng: Kinh tế số Việt Nam tăng trưởng vượt 20%/năm, nhanh nhất Đông Nam Á. Thương mại điện tử bùng nổ, thuộc top 10 thế giới. Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử của Việt Nam tăng 15 bậc, lần đầu tiên vào nhóm "Rất cao" của Liên hợp quốc.

Có thể khẳng định, đường lối, chính sách phát triển kinh tế số của Đảng và Nhà nước ta là hoàn toàn đúng đắn, kịp thời và mang tầm nhìn chiến lược. Hệ thống chính sách được xây dựng toàn diện, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm và các giải pháp đột phá khả thi, bao trùm mọi khía cạnh từ thể chế, hạ tầng, dữ liệu, nhân lực đến an toàn an ninh mạng.

Sự thành công của chiến lược không chỉ phụ thuộc vào quyết tâm của Chính phủ, mà cần sự chung sức, đồng lòng của toàn dân tộc. Các doanh nghiệp công nghệ số cần chủ động phát triển các nền tảng "Make in Viet Nam". Các doanh nghiệp ở mọi lĩnh vực cần tiên phong chuyển đổi số. Các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể cần tích cực tuyên truyền, vận động.

Và mỗi người dân hãy chủ động học hỏi, nâng cao kỹ năng số, sử dụng các dịch vụ số an toàn để vừa làm giàu cho bản thân, vừa góp phần hiện thực hóa khát vọng đưa Việt Nam trở thành quốc gia số hùng cường, thịnh vượng./.

Nổi bật
    Mới nhất
    Chiến lược để đưa kinh tế số Việt Nam cất cánh