Cao Bằng: Phát triển nguồn gen lợn đen Lục Khu theo hướng sản xuất hàng hóa
Lợn đen Lục Khu xã Tổng Cọt, giống lợn có ngoại hình nổi bật với lông da toàn thân màu đen, thân ngắn, lưng hơi võng, lúc trưởng thành khối lượng nặng 60 - 70kg. Lợn đen Lục Khu có những ưu thế mà các giống lợn nhập ngoại không thể có được, đó là khả năng thích nghi với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt của vùng núi cao, mức độ đầu tư, chăm sóc thấp, chất lượng thịt thơm ngon…
Nhằm bảo tồn và phát triển nguồn gen lợn Đen Lục Khu để tạo ra sản phẩm thịt có chất lượng, đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Năm 2022, bằng nguồn vốn sự nghiệp khoa học, tỉnh Cao Bằng đã giao cho Viện khoa học sự sống - Đại học Thái Nguyên thực hiện đề tài “Nghiên cứu bảo tồn và phát triển nguồn gen lợn đen Lục Khu, huyện Hà Quảng theo hướng sản xuất hàng hóa”.

Đơn vị chủ nhiệm đề tài đã đầu tư 02 lợn rừng lai bàn giao cho 2 hộ gia đình: Ông Liêu Văn Thiện và ông Trương Văn Thái ở xã Tổng Cọt. Đây là 02 hộ có điều kiện chuồng nuôi tương đối tốt, có kinh nghiệm trong chăn nuôi lợn đực giống. Lợn giống rừng lai tại mô hình có tính đực tốt.
Tính đến nay, 02 lợn đực giống đã phối giống cho 182 lượt lợn nái, trong đó có 54 lượt lợn nái thuộc mô hình sinh sản của đề tài và 128 lượt lợn nái ngoài mô hình, tỷ lệ thụ thai đạt 95,1%.
Trong quá trình thực hiện, đơn vị thực hiện đề tài đã theo dõi khả năng sinh trưởng, năng suất và chất lượng thịt của 30 lợn lai thương phẩm. Kết quả bước đầu cho thấy, lợn thương phẩm rừng lai có sinh trưởng tích luỹ thấp hơn lợn đen địa phương (đạt 90,20%) khi cùng điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng. Tuy nhiên tỷ lệ thịt nạc cao hơn lợn đen địa phương 3,92%.
Đồng thời, đơn vị thực hiện đề tài tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu khẩu phần ăn hợp lý trên 60 lợn đen thương phẩm với 4 mức protein khác nhau. Kết quả cho thấy có sự khác nhau đáng kể về khả năng sinh trưởng tích luỹ của lợn thí nghiệm. Lợn ăn khẩu phần có hàm lượng protein cao cho năng suất và tỷ lệ thịt nạc cao hơn đáng kể.
Trong năm 2025, đề tài đã được nghiệm thu và hoàn thành các mục tiêu đề ra. Kết quả triển khai cho thấy, mô hình duy trì 32 lợn nái (sinh sản và hậu bị); các lợn nái đẻ tổng cộng 106 ổ với 962 con sơ sinh còn sống, trong đó 794 con được cai sữa. Từ số lợn cai sữa này, 239 con đã được xuất bán làm giống và 555 con được đưa vào mô hình nuôi thương phẩm.
Mô hình chăn nuôi lợn thương phẩm đã xuất bán tổng cộng 322 con lợn thịt và 186 con lợn choai. Hầu hết số lợn này được thương lái mua chuyển đi phục vụ nhu cầu tiêu thụ ở các thị trấn, thành phố trong và ngoài tỉnh.
Để duy trì đảm bảo nguồn giống đạt chất lượng cao, đơn vị đã đào tạo được 02 kỹ thuật viên cho mô hình thụ tinh nhân tạo. Học viên sau khi được đào tạo đã thực hành thành thạo huấn luyện lợn đực nhảy giá, biết khai thác tinh, pha tinh, bảo quản và truyền tinh nhân tạo...
Kết quả nghiên cứu đã góp phần làm thay đổi cách suy nghĩ và tập quán chăn nuôi của đồng bào dân tộc, cung cấp thêm quy trình công nghệ chăn nuôi lợn địa phương, bảo tồn nguồn gen vật nuôi, kết hợp phương pháp chăn nuôi truyền thống, kinh nghiệm của đồng bào dân tộc thiểu số để tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao và an toàn.
Đồng thời, tăng hiệu quả kinh tế trên đơn vị đất kém hiệu quả, tận dụng môi trường đất trống, đồi trọc, tạo công ăn việc làm cho đồng bào dân tộc miền núi./.
