Xây dựng tầm nhìn chiến lược và toàn diện hơn cho giảm nghèo bền vững
Giai đoạn đến năm 2035 là thời kỳ bản lề để Việt Nam hiện thực hóa khát vọng trở thành nước có thu nhập cao vào năm 2045. Trong hành trình này, công tác giảm nghèo không chỉ là đảm bảo an sinh mà đã trở thành chiến lược phát triển bao trùm và nhân văn.
Những thách thức lớn đe dọa giảm nghèo bền vững
Khi tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn quốc gia giảm xuống mức thấp, những thách thức còn lại càng trở nên gay gắt và phức tạp, đòi hỏi các giải pháp đặc thù.

Thách thức dai dẳng nhất là nguy cơ tái nghèo cao và nhóm cận nghèo dễ bị tổn thương. Các hộ mới thoát nghèo và nhóm cận nghèo chỉ cần một cú sốc nhỏ như sức khỏe, thiên tai, mất việc là dễ dàng rơi trở lại ngưỡng nghèo.
Khi chi phí khám chữa bệnh cao, đặc biệt đối với bệnh hiểm nghèo là nguyên nhân hàng đầu khiến các hộ gia đình kiệt quệ về tài chính.
Trước thiên tai và biến đổi khí hậu thường xuyên, các vùng nghèo thường tập trung ở khu vực dễ bị tổn thương bởi lũ lụt, hạn hán, và xâm nhập mặn đe dọa trực tiếp đến sinh kế nông nghiệp.
Tăng trưởng kinh tế không đồng đều dẫn đến sự chênh lệch lớn về mức sống và cơ hội phát triển, khiến khoảng cách giàu nghèo vùng miền ngày một gia tăng. Ở vùng núi và vùng dân tộc thiểu số, tỷ lệ nghèo đa chiều vẫn cao gấp nhiều lần so với mức trung bình cả nước. Sự thiếu hụt trầm trọng về hạ tầng giao thông, chất lượng giáo dục và dịch vụ y tế chính là rào cản lớn nhất.
Ở thành thị và nông thôn, mặc dù thu nhập tăng, chi phí sinh hoạt cao ở thành thị khiến nhiều lao động nhập cư, lao động phi chính thức vẫn dễ rơi vào cảnh nghèo tương đối.
Hơn nữa, trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh chuyển đổi số, năng lực tiếp cận công nghệ và kỹ năng số của người nghèo bị bỏ lại phía sau. Việc có những hạn chế và thiếu kỹ năng số khiến người lao động nghèo khó tiếp cận việc làm có thu nhập cao, bị loại khỏi các cơ hội học tập trực tuyến và dịch vụ công trực tuyến. Việc thiếu Internet băng thông rộng, máy tính hoặc thiết bị thông minh ở các thôn bản vùng sâu, vùng xa làm trầm trọng thêm sự thiếu hụt thông tin.
Việc nâng chuẩn nghèo đa chiều để phù hợp với mức sống mới (giai đoạn 2026 - 2030) sẽ làm tăng số lượng hộ nghèo và cận nghèo, tạo áp lực lớn lên ngân sách nhà nước và đòi hỏi phải sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả, tránh phân tán.
Tầm nhìn chiến lược giảm nghèo bền vững đến năm 2035
Để vượt qua những thách thức trên, tầm nhìn chiến lược của Việt Nam đến năm 2035 tập trung vào 3 trụ cột đột phá: Tích hợp chính sách, nâng cao chuẩn sống và phát triển năng lực nội sinh.
Việc tích hợp và quản lý chính sách toàn diện là một sự thay đổi lớn về cơ cấu tổ chức và quản lý chương trình. Việc hợp nhất chương trình giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, và phát triển dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) thành một chương trình MTQG tích hợp chung cho giai đoạn 2026 - 2035 nhằm tập trung nguồn lực, tránh chồng chéo, và tạo sức mạnh tổng hợp trong phát triển vùng. Cùng với đó là thiết lập cơ chế điều phối hiệu quả, xuyên suốt giữa các Bộ, ngành và địa phương, đảm bảo mọi can thiệp được thực hiện đồng bộ tại địa bàn ưu tiên.
Giảm nghèo đến năm 2035 không chỉ là chống đói mà là đảm bảo quyền tiếp cận các dịch vụ xã hội chất lượng cao.
Chuẩn nghèo đa chiều mới (2026 - 2030) sẽ nâng cao đáng kể ngưỡng thu nhập (dự kiến tăng 30 - 40% so với giai đoạn trước) để theo kịp tốc độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát.
Ngoài ra, chiến lược phát triển năng lực nội sinh và sinh kế bền vững phải lấy người dân làm trung tâm và phát huy khả năng tự lực của cộng đồng, đẩy mạnh giáo dục nghề nghiệp và việc làm, đào tạo nghề phải gắn chặt với nhu cầu thị trường, đặc biệt là các ngành dịch vụ, du lịch và nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Chính sách tín dụng ưu đãi cần hỗ trợ các mô hình kinh doanh nhỏ và khởi nghiệp tại địa phương.
Trong tầm nhìn chiến lược 2035, việc trao quyền cho cộng đồng sẽ được đẩy mạnh. Nhà nước sẽ tăng cường phân cấp quản lý và trao quyền quyết định cho cấp xã, thôn bản trong việc lựa chọn và giám sát các dự án đầu tư, thúc đẩy vai trò của các tổ chức cộng đồng như hợp tác xã, tổ hợp tác… trong phát triển sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị.
Các mô hình sinh kế như nông nghiệp thông minh, chuyển đổi cơ cấu cây trồng chịu hạn/chịu mặn… cũng sẽ được xây dựng cùng với việc củng cố hệ thống bảo hiểm xã hội và bảo hiểm vi mô để tạo "bộ đệm tài chính" cho các hộ cận nghèo.
Tầm nhìn cuối cùng đến năm 2035 là đạt được sự thịnh vượng bao trùm với tỷ lệ hộ nghèo nghèo đa chiều toàn quốc ở mức rất thấp, tiệm cận 0% theo chuẩn nghèo quốc gia hiện hành, hoặc hoàn thành các mục tiêu phát triển nền vững của Liên hợp quốc về xóa đói giảm nghèo. Cơ bản xóa bỏ tình trạng các xã, thôn đặc biệt khó khăn và thu hẹp đáng kể khoảng cách phát triển giữa vùng dân tộc thiểu số và miền núi với mức trung bình cả nước.
Tóm lại, công tác giảm nghèo của Việt Nam đến năm 2035 là một cuộc chuyển mình chiến lược, vượt ra ngoài khuôn khổ an sinh truyền thống. Nó đòi hỏi sự đầu tư thông minh, tính minh bạch cao, và sự tham gia chủ động của cộng đồng để xây dựng một xã hội công bằng, nơi mọi người dân đều có cơ hội phát triển và thụ hưởng thành quả của tăng trưởng kinh tế./.
