Diễn đàn

Ứng dụng công nghệ để nâng cao hiệu quả dự báo sớm thiên tai

PT 27/11/2025 07:53

Trước diễn biến thiên tai ngày càng khó lường, tăng cường ứng dụng công nghệ số và trí tuệ nhân tạo là chìa khóa để nâng cao năng lực giám sát, dự báo và cảnh báo sớm, giúp bảo vệ tính mạng và giảm thiểu thiệt hại cho người dân.

Ngày 25/11, Báo Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống thiên tai; Quỹ Cộng đồng Phòng, tránh thiên tai (QPT) và Sở Nông nghiệp và Môi trường Bắc Ninh tổ chức Diễn đàn “Ứng dụng khoa học, công nghệ trong dự báo và cảnh báo thiên tai”.

image-6-.jpg
Toàn cảnh Diễn đàn.

Áp dụng công nghệ mới trong dự báo, cảnh báo sớm thiên tai

Phát biểu khai mạc Diễn đàn, TS. Cao Đức Phát, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chủ tịch Hội đồng quản lý QPT nhấn mạnh, những năm qua, Việt Nam liên tiếp hứng chịu nhiều trận bão, lũ trên diện rộng với mức độ nghiêm trọng và nhiều chỉ số mang tính lịch sử.

Trong ứng phó thiên tai, công tác dự phòng luôn đóng vai trò then chốt mà trước hết là năng lực giám sát, dự báo và cảnh báo sớm.

Những năm gần đây, Nhà nước cùng các doanh nghiệp, tổ chức xã hội và cộng đồng quốc tế đã đầu tư nâng cao năng lực quan trắc, dự báo và đạt được nhiều tiến bộ, đặc biệt trong dự báo bão.

z7260778992713998d4fa553d6a77d801aa6c73a00633d-17640659628861551674652.jpg
TS. Cao Đức Phát, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chủ tịch Hội đồng quản lý Quỹ Cộng đồng Phòng, tránh thiên tai phát biểu tại Diễn đàn.

Tuy vậy, do thiên tai ngày càng khó lường và đa dạng, công tác giám sát và cảnh báo vẫn còn những hạn chế so với yêu cầu thực tiễn.

“Ở chiều ngược lại, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ số và trí tuệ nhân tạo, đang mở ra cơ hội mới để nâng cao hiệu quả dự báo. Ngoài dữ liệu vệ tinh, nhiều thiết bị tự động đo mưa, radar, cảm biến đo nhiệt độ, gió, mực nước, lưu tốc hay dịch chuyển đất đá đang được triển khai, cho phép tích hợp thông tin nhanh hơn, mô phỏng chính xác hơn theo từng địa bàn và truyền tải kịp thời đến người dân”, TS. Cao Đức Phát chia sẻ.

Các địa phương, trong đó có miền Bắc, cần nghiên cứu xây dựng mô phỏng rủi ro ngập lụt và sạt lở theo từng vùng, từng cấp độ, từng bước hoàn thiện để phục vụ cảnh báo chủ động.

Những công nghệ này chỉ phát huy hiệu quả khi đi cùng đầu tư thiết bị quan trắc, hệ thống cảnh báo và một bộ máy vận hành ổn định, được duy trì lâu dài TS. Cao Đức Phát nhấn mạnh.

Trong 17 năm qua, QPT đã huy động nguồn lực xã hội để lắp đặt gần 1.000 trạm đo mưa và cảnh báo lũ tự động; hiện tiếp tục phối hợp hỗ trợ thiết bị đo mặn, cảnh báo sạt lở, xây dựng hệ thống cảnh báo số và đội xung kích phòng chống thiên tai ở cơ sở.

Khi cả nước đang hướng về miền Trung để hỗ trợ đồng bào vượt qua khó khăn, đây cũng là thời điểm cần suy nghĩ sâu hơn về việc ứng dụng khoa học và công nghệ để xây dựng các mô phỏng cảnh báo cụ thể: Mưa 300 mm, 500 mm hay 700 mm sẽ gây ngập đến đâu; trong tình huống mất điện, mất sóng, cán bộ cơ sở vẫn có thể dựa vào thông tin đầu vào để hướng dẫn người dân chủ động ứng phó.

Một số tỉnh miền Trung, như Quảng Ngãi, đã từng triển khai mô phỏng này và cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện để phản ánh thực tế chính xác hơn. Diễn đàn mong muốn lắng nghe ý kiến từ các nhà khoa học, cơ quan chuyên môn và người dân về nhu cầu và khả năng áp dụng công nghệ mới trong dự báo, cảnh báo sớm thiên tai, nhằm để những nỗ lực chung mang lại hiệu quả thiết thực hơn cho cộng đồng và quốc gia.

Cần cảnh báo sớm sạt lở, ngập lụt tại những khu vực trọng yếu

Cũng trong khuôn khổ Diễn đàn, nhiều chuyên gia, nhà quản lý... cũng trình bày các tham luận, ý kiến giá trị xoay quanh các nội dung như hoạt động của QPT; cảnh báo sạt lở đất nhằm xây dựng khu dân cư an toàn; cải tiến công nghệ mới trong cảnh báo mưa, lũ trong phòng chống thiên tai; các phần mềm, hệ thống hỗ trợ phòng chống thiên tai...

Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Bắc Ninh Đặng Công Hưởng khẳng định, cảnh báo sớm quyết định an toàn đê điều và đời sống người dân, đặc biệt khi biến đổi khí hậu làm gia tăng tần suất, cường độ mưa lũ.

Phương thức “trông trời, trông nước” không còn phù hợp và khoa học công nghệ trở thành “lực lượng tuyến đầu mới”. Điều này giúp mô phỏng mưa lũ chi tiết, cảnh báo nguy cơ sạt lở, vỡ bờ, ngập sâu, hỗ trợ chỉ huy điều hành kịp thời.

Chia sẻ về giải pháp phát hiện sạt lở và xây dựng khu dân cư an toàn dựa trên dữ liệu địa chất, công nghệ học máy và cảnh báo thời gian thực, GS.TS. Đỗ Minh Đức, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội cho biết, mô hình đã được thử nghiệm tại thị trấn Mù Cang Chải, nơi thường xuyên xảy ra sạt lở đất và lũ bùn đá.

Khảo sát cho thấy, nhiều điểm trượt lớn xuất hiện gần khu dân cư, trong đó có những vị trí bị đào cắt mái dốc khi xây dựng nhà cửa, gây mất ổn định địa hình và làm nghẽn dòng chảy.

Từ thực trạng này, nhóm nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí đánh giá nguy cơ, lập danh sách hộ dân nằm trong vùng rủi ro và đề xuất mô hình khu dân cư an toàn dựa trên ba nguyên tắc: Tuân thủ quy định về đất đai - xây dựng, chủ động phòng ngừa và không để xảy ra thiệt hại về người. Bản đồ phân vùng nguy cơ được xây dựng bằng mô hình học máy Random Forest, cho phép nhận diện khu vực dễ xảy ra sạt lở với độ chi tiết cao.

Một điểm nhấn của giải pháp là ứng dụng “Sạt lở Việt Nam”, tích hợp bản đồ mưa, bản đồ nguy cơ và cảnh báo theo giờ. Thiết bị đo mưa và còi cảnh báo đã được lắp đặt tại nhiều điểm trong khu dân cư để hỗ trợ sơ tán kịp thời.

GS.TS. Đỗ Minh Đức nhấn mạnh ba bài học then chốt. Đó là phát hiện sớm - cảnh báo sớm - hành động sớm; đúng người - đúng việc - đúng thời điểm và ba cấp độ thông tin từ tiếp nhận đến chuyển thành hành động. Đây được xem là nền tảng để địa phương chủ động hơn trước các hiện tượng cực đoan.

Nhìn từ thực tiễn ứng phó, ông Bùi Quang Huy, Phó Giám đốc Trung tâm Chính sách và Kỹ thuật phòng, chống thiên tai, Cục Quản lý Đê điều và Phòng, chống thiên tai cho rằng, thiên tai phức tạp hơn đang đòi hỏi cách tiếp cận mới - chủ động, dựa vào dữ liệu và phối hợp đa ngành.

Vai trò của cấp xã ngày càng quan trọng. Nếu trước đây chủ yếu thực hiện chỉ đạo từ huyện, thì nay cấp xã vừa phải chỉ đạo, vừa vận hành ứng phó trực tiếp. Việc liên kết giữa các xã và giữa xã với tỉnh gặp nhiều thách thức vì địa bàn rộng, năng lực và nguồn lực không đồng đều. Chính vì vậy, chuyển đổi số là yêu cầu cấp thiết, nhưng nhiều địa phương vẫn “nhầm lẫn giữa ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số”.

Trung tâm đang phát triển hệ thống giám sát thiên tai cấp tỉnh, thí điểm tại Hà Tĩnh, kết nối dữ liệu giữa Trung ương - tỉnh - xã và cộng đồng. Hệ thống gồm hai giao diện: Một dành cho người dân theo dõi tình hình và nhận hướng dẫn ứng phó; một dành cho cơ quan chỉ đạo điều hành, tích hợp dữ liệu thời gian thực, theo dõi tiến độ sơ tán và quản lý điểm an toàn trên bản đồ số.

Bên cạnh đó, phần mềm xây dựng và điều chỉnh phương án sơ tán dân theo thời gian thực giúp địa phương cập nhật điểm nguy hiểm, tuyến di chuyển và khu an toàn. Kết quả thử nghiệm cho thấy, lực lượng cấp cơ sở có thể chủ động và linh hoạt hơn nhiều so với mô hình truyền thống./.

Nổi bật
    Mới nhất
    Ứng dụng công nghệ để nâng cao hiệu quả dự báo sớm thiên tai