Thanh Hóa: Coi giảm nghèo là là trách nhiệm chính trị thường xuyên
Nếu nhìn vào bản đồ giảm nghèo của cả nước giai đoạn 2021-2025, Thanh Hóa thường được nhắc đến như một địa phương có cách làm khá “đều tay”, tỷ lệ nghèo giảm ổn định, nhiều mô hình sinh kế được nhân rộng và nguồn lực được huy động từ nhiều kênh khác nhau.
Điều đáng chú ý không chỉ nằm ở con số giảm nghèo, mà ở tư duy tổ chức thực hiện, Thanh Hóa xác định giảm nghèo là trách nhiệm chính trị thường xuyên của cả hệ thống, từ tỉnh tới thôn bản.
Cách đặt vấn đề này trùng với tinh thần của Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững 2021-2025, vốn nhấn mạnh giảm nghèo đa chiều, hạn chế tái nghèo và huy động tổng lực các chủ thể phát triển.
Giảm nghèo muốn “đi đường dài” phải có lãnh đạo xuyên suốt
Thực tiễn cho thấy, giảm nghèo bền vững là công việc liên ngành. Sinh kế gắn với nông nghiệp, công thương, du lịch; dịch vụ xã hội cơ bản liên quan y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin; còn tín dụng chính sách lại là trụ cột tài chính để người nghèo có vốn vươn lên. Nếu chỉ giao cho một ngành “đứng mũi chịu sào”, kết quả dễ rời rạc, chắp vá; nơi làm tốt khâu này nhưng khâu khác lại yếu, cuối cùng hộ nghèo khó thoát nghèo bền.
Từ nhận thức đó, Thanh Hóa kiện toàn bộ máy chỉ đạo, tổ chức thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025; đồng thời ban hành hệ thống văn bản hướng dẫn triển khai, phân công trách nhiệm cụ thể, tạo “một nhịp” chung giữa các sở, ngành và địa phương.
Cách làm này giúp chương trình không bị đứt đoạn, hạn chế tình trạng mạnh ai nấy làm, bảo đảm mục tiêu chung được cụ thể hóa thành kế hoạch, chỉ tiêu, dự án và lộ trình thực hiện rõ ràng.
Đây là cách làm phù hợp với yêu cầu của Quyết định 90/QĐ-TTg (18/1/2022), nơi Chính phủ đặt ra khung mục tiêu, cơ chế phối hợp và phân bổ trách nhiệm rõ ràng giữa Trung ương - địa phương.

Điểm quan trọng là giảm nghèo được lồng ghép vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm của từng xã. Có nghĩa là, không chờ đến hết giai đoạn mới tổng kết, mà mỗi năm đều phải có mục tiêu, có kiểm tra, có đánh giá và điều chỉnh.
Làm như vậy sẽ tránh tâm lý “đến hẹn rồi làm”, đồng thời kịp thời cắt giảm hoặc chuyển hướng những dự án kém hiệu quả, tập trung nguồn lực cho mô hình có triển vọng và phù hợp thực tế.
Từ thực tiễn cơ sở, Thanh Hóa rút ra một nguyên tắc: Cấp xã, thôn, bản hiểu hộ nghèo nhất, nên phải giao quyền chủ động cho cơ sở trong lập kế hoạch, lựa chọn mô hình, bố trí đối tượng tham gia. Khi cơ sở được trao quyền, chương trình có điều kiện “đúng người, đúng việc”, tăng khả năng thành công.
Tuy nhiên, phân cấp quản lý không đồng nghĩa với việc thả nổi. Các sở, ngành chủ trì dự án vẫn đóng vai trò tham mưu, hướng dẫn, tháo gỡ vướng mắc, giám sát tiến độ, kịp thời chấn chỉnh sai lệch.
Cách tổ chức đó vừa phát huy tính chủ động của cơ sở, vừa giữ được kỷ luật quản lý, hạn chế thất thoát, bảo đảm vốn và chính sách đến đúng hộ nghèo, đúng mục tiêu.
Nhờ phân quyền gắn với kiểm tra, nhiều dự án đầu tư hạ tầng thiết yếu (đường, điện, trường lớp, nước sinh hoạt…) và dự án hỗ trợ sinh kế ở Thanh Hóa được triển khai tương đối đúng tiến độ, tạo hiệu ứng rõ rệt ở cộng đồng: đi lại thuận lợi hơn, dịch vụ giáo dục - y tế tiếp cận dễ hơn, điều kiện sản xuất được cải thiện, góp phần nâng chất lượng sống chứ không chỉ tăng thu nhập ngắn hạn.
Huy động xã hội để nguồn lực đủ và đúng
Giảm nghèo bền vững đòi hỏi nguồn lực lớn và cách làm bền bỉ, bởi nghèo không chỉ là thiếu tiền mà còn thiếu dịch vụ xã hội cơ bản. Cùng với ngân sách nhà nước, Thanh Hóa đẩy mạnh xã hội hóa thông qua Mặt trận Tổ quốc và Quỹ “Vì người nghèo”, vận động doanh nghiệp, tổ chức tôn giáo, cộng đồng dân cư tham gia hỗ trợ nhà ở, trao sinh kế, hỗ trợ vốn, nhận “đỡ đầu” hộ khó khăn.
Ở nhiều địa phương, Tháng cao điểm “Vì người nghèo” trở thành điểm nhấn, biến giảm nghèo thành phong trào đoàn kết rộng rãi, có sự chung tay của toàn xã hội.
Điểm hay ở cách làm này là cùng một đồng vốn, nếu có thêm nguồn đối ứng xã hội, địa phương có thể mở rộng quy mô dự án, nâng chất lượng hỗ trợ (ví dụ hỗ trợ cả con giống lẫn chuồng trại, cả máy móc lẫn tập huấn), làm tăng khả năng thoát nghèo thực sự.
Ở cấp độ hộ gia đình, giảm nghèo chỉ bền khi người dân có việc làm hoặc sinh kế ổn định. Thanh Hóa hiện duy trì hơn 600 mô hình đa dạng hóa sinh kế và gần 350 mô hình phát triển sản xuất nông nghiệp.
Trọng tâm là các hướng phù hợp điều kiện địa phương như chăn nuôi trâu bò dê lợn gia cầm, nuôi cá lồng, trồng dược liệu, cây ăn quả, làm nghề phụ gắn với làng nghề… Những mô hình này cho phép hộ nghèo bắt đầu từ quy mô nhỏ, tận dụng lao động gia đình và mở rộng dần khi có tích lũy.
Cùng với đó, tín dụng ưu đãi tiếp tục là bệ đỡ quan trọng để người nghèo có vốn đầu tư sản xuất. Nhiều hộ thoát nghèo nhờ mạnh dạn vay vốn Ngân hàng Chính sách xã hội, phát triển đàn gia súc, chuyển đổi giống mới, áp dụng kỹ thuật mới.
Về bản chất, đây là cách làm nhất quán với tinh thần của chương trình quốc gia, Nhà nước tạo điều kiện để hộ nghèo tự vươn lên, tự làm chủ sinh kế trong mức rủi ro có thể kiểm soát.
Một điểm mới nổi bật của Thanh Hóa giai đoạn này là đưa chuyển đổi số vào quản trị và sinh kế. Người dân ở một số vùng đã bắt đầu bán nông sản qua mạng xã hội, sàn thương mại điện tử, vừa mở rộng thị trường vừa giảm phụ thuộc vào thương lái.
Cấp cơ sở thử nghiệm số hóa, gắn mã QR cho từng hộ để công khai thông tin hỗ trợ, giúp tránh trùng lặp, hạn chế sai lệch trong đối tượng thụ hưởng. Dưới góc quản trị, đây là cách tăng minh bạch, đúng với yêu cầu của giảm nghèo đa chiều và có giám sát xã hội.
Dù kết quả tích cực, Thanh Hóa vẫn gặp các bài toán khó giống nhiều địa phương khác. Một bộ phận hộ nghèo hiện nay là hộ không còn sức lao động, người già neo đơn, người khuyết tật hoặc bệnh mạn tính.
Với nhóm này, mô hình sản xuất không còn là lời giải chính, họ cần trợ giúp xã hội, chăm sóc y tế và dịch vụ cộng đồng nhiều hơn. Điều đó đòi hỏi chính sách giảm nghèo phải phân tầng đối tượng, tránh “đồng phục giải pháp”.
Từ thực tiễn triển khai, có thể rút ra một số bài học quan trọng trong công tác giảm nghèo bền vững ở Thanh Hóa:
Thứ nhất, giảm nghèo phải là nhiệm vụ chính trị thường xuyên. Khi cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và các sở, ngành coi đây là việc lâu dài, chương trình sẽ không bị đứt đoạn theo nhiệm kỳ hay theo “đợt thi đua”.
Thứ hai, phân cấp để sát dân, nhưng giám sát để đúng người. Cơ sở phải được trao quyền chọn mô hình phù hợp, lựa chọn đúng đối tượng; cấp trên giữ vai trò kiểm tra, chuẩn hóa quy trình, xử lý sai lệch.
Thứ ba, nguồn lực phải đủ, đúng và đa kênh. Không có vốn thì khó làm; nhưng có vốn mà rơi sai đối tượng hoặc không giám sát thì càng lãng phí.
Nói cách khác, “giảm nghèo bền vững” không phải khẩu hiệu. Với Thanh Hóa, đó là một quá trình làm thật, làm đều và làm tới nơi tới chốn - để người thoát nghèo không chỉ thoát một lần, mà thoát hẳn./.
